Chuyện Kể
Thiếu Úy 9 Ngày
Phạm Văn Hùng SVSQVBĐL K28
Khi giặc
chiếm Sàigòn tháng 4/75, mỗi người lính miền Nam
đều phải đối mặt với những
nghịch cảnh riêng: kẻ tự vẫn, người
buông súng, kẻ tìm đường về nhà, người
tìm đường ra khơi v.v....
Bài viết, Chuyện Kể Thiếu Úy 9 Ngày của
Phạm Văn Hùng SVSQVBĐL K28 cung cấp cho chúng ta
những chi tiết thật về việc đơn
vị của anh đã buông súng như thế nào, và
những gì đã diễn ra ngoài khơi vào các ngày 30/4, 1/5, và
2/5 năm 1975.
&-&-&
Câu chuyện tôi sắp kể cũ xưa lắm rồi
những gần 35 năm chớ ít gì. Ngày 30 tháng 4 năm
2010 tới là đánh dấu 35 năm tính từ ngày 30 tháng 4
năm 1975. Lẹ quá! Tôi có thằng bạn chung khóa tên
Trần Hiệp về cùng Lữ Đoàn 1 Dù. Theo như
lời nó nói, có 6 Thiếu úy về mỗi tiểu đoàn,
chia đều 3 cho khóa 28 và 3 cho khóa 29. Khóa 28 có nó và Lê
Phước Nhuận, còn thằng thứ ba tụi nó không
nhớ ra ai, tôi nhận bừa, tôi chứ ai. Nhưng
nếu là tôi, sao tôi không về Tiểu Đoàn 1 mà lọt
chọt về Tiểu Đoàn 8/Đại đội 83.
Như đúng lời nó nói, vậy Tiểu Đoàn 8 hẳn
phải còn 2 ông khoá 28 nữa. Hai người đó là ai và
còn người thứ ba bên Tiểu Đoàn 1. Chúng tôi tranh
luận và bắt đầu ghi nhớ lại khởi
điểm từ Núi Đất, Phước Tuy, với hy
vọng quí niên trưởng và các bạn nào có góp mặt vào
thời điểm ấy cho chúng tôi biết tin thêm.
Cám ơn! Như tôi nói biến chuyển thời cuộc
đã qua 35 năm, mọi sai sót ắt phải có mong quí
vị bỏ qua cũng như với cấp bậc
Thiếu Úy mới ra trường, ăn chưa no lo
chưa tới, xin quí vị thứ lỗi luôn. Phải
bắt đầu như thế nào đây? Ừm, cho tôi nói
về Trần Hiệp trước. Sau khi trưởng toán
Lê Phước Nhuận trình diện các tân thiếu úy 28, 29
lên Tham Mưu Ban 3 Tiểu Đoàn 1 Dù, niên trưởng
Thể K24 còn chấn chỉnh trưởng toán trình
diện với quân phục không được gọn gàng,
cũng may không bị hít đất. Sau đó cả toán
được trình diện lên Tiểu Đoàn
Trưởng, Thiếu Tá Ngô Tùng Châu K18.
May mắn cho tụi nó hôm đó la Thiếu Tá Châu có
người nhà ra thăm nên được ưu ái đãi
ăn một bữa cơm dã chiến gồm bánh hỏi và
thịt heo quay trước khi ra đại đội trình
diện. Hiệp nhà ta ra đại đội mừng húm
gặp lại niên trưởng Thọ K25 đang làm
đại đội trưởng. Chả là hồi ở
trong trường hai người cùng chung Đại
Đội H. Ngày vui không bao lâu, nó và đơn vị
phải gian khổ mới kéo nhau về trình diện
Vũng Tàu kể từ khi chân cầu Cỏ May bị
giựt sập. Đơn vị nó được chỉ
định đóng ở bãi sau Vũng Tàu. Chưa yên, qua
ngày 29 tháng 4 bị ăn đạn pháo ở Bến Đá,
Vũng Tàu, khi đơn vị nó định theo chân Lữ
Đoàn rời về Vàm Láng, Gò Công. Vì đi ghe nhỏ, nó
chậm chạp vào Gò Công ngày 30 tháng 4, chuyện tan đàn
xảy nghé đã diễn ra tại đây và nó bơ vơ
từ dạo đó.
Đúng là ngày vui qua mau, thời gian 9 ngày Thiếu Úy ray
rứt nó mãi trong lao tù cộng sản. Tại sao ngày đó
không đi tha phương để khỏi bị cảnh
đày đọa ngay trên quê hương? Nó hối hận
chọn lầm đường ở lại. Quay sang Lê
Phước Nhuận, Thiếu Úy 9 ngày của nó thật
oanh liệt. Nó về Đại Đội 15 thuộc
Tiểu Đoàn 1, nắm chức Đại Đội Phó.
Tối 25 tháng 4 được dự lễ khao quân ở
tiểu khu Phước Tuy nhưng qua tối 26 lãnh trọn
đêm đạn địch pháo kích, và ngày 27 bị
địch quân vây hãm trong đồn Nhà Đá. Trung
đội của nó phải mở đường máu thoát
ra ngoài và nhờ liên lạc được với niên
trưởng Thể mới tìm đường về
Bến Đá vào ngày 28. Sau một đêm yên bình trên tàu
đánh cá, ngày 29 chiếc tàu của nó lại phải
chạy tránh né đạn pháo kích nơi này. Ngày 30 tàu nó
vẫn còn lang thang trên biển không biết Lữ Đoàn 1
đã về Vàm Láng, Gò Công.
Sau cùng, nó được Mỹ vớt ngày 1 tháng 5 và từ
đó nó bắt đầu cuộc đời lưu vong.
Còn tôi, cũng Thiếu Úy 9 ngày nhưng không có lấy
một ngày oanh liệt như bạn tôi, Lê Phước
Nhuận. Và đây, câu chuyện của tôi. Ngày 21 tháng 4
năm 1975, khóa 28, 29 rủ nhau ra trường một lượt.
Lễ mãn khóa với quân phục và nón sắt, chúng tôi
hăm hở lên đường. Có điều trùng
hợp, ngày lịch sử của hai khóa chúng tôi cũng là
ngày lịch sử cho đất nước Việt Nam
Cộng Hòa, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
từ chức. Ngày 24 tháng 4, toán Nhảy Dù chúng tôi ra trình
diện Lữ Đoàn 1 tại Núi Đất, Phước
Tuy sau nhiều ngày nằm chờ dài cổ ở trai Hoàng
Hoa Thám, Sài Gòn. Tôi về Tiểu Đoàn 8, Đại
Đội 83, Đại Úy Hiệu đại đội
trưởng.
Đêm đó, theo lệnh cấp trên, Đại Úy Hiệu
đưa đại đội lên ngọn đồi cao
nhất của Phước Tuy trú đóng. Tôi chưa có
chức vụ gì trong đại đội, chỉ theo sau
lưng để quan sát lối hành quân của ông ta.
Trời khá khuya, dưới ánh trăng mờ nhạt
bỗng ai cũng nghe hai tiếng bịch, bịch rổi
im lặng sau đó. Ổng đang đi ngon trớn,
khựng lại hơi khòm xuống và hỏi nhanh về
phía trước:
- Đ.M. cái gì đó? Chừng mươi giây sau có tiếng
khàn khàn rất nhỏ vọng lại từ phía
trước: - Dạ... thưa... có thằng hái đu
đủ!
- Đ.M. kêu nó tới đây. Giọng ổng đanh
lại và đứng thẳng người lên. Đằng
trước có dáng dấp một người nhỏ con
hơi lùn chạy lom khom đến và chuẩn bị trình
diện thì bình, bịch, bình , bịch. Ổng, không
nhiều tay, giơ chân đá hai ba cái lên thân hình
người lính gây tội ấy:
- Đ.M. mầy muốn giết cả đám hả? Đã
biểu im lặng mà. Những tiếng động mà
ổng giáng xuống người lính, còn lớn hơn trái
đu đủ rớt. Vậy mà ổng kêu im lặng. Tôi
quì ở phía sau ở thế thủ nghĩ thầm.
Mẹ, Nhảy Dù kỷ luật quá xá và đây là lần
đầu tôi thấy sĩ quan đánh lính. Rồi thì
cũng lên tới đồi, bây chừ ổng mới nói
chuyện với tôi, đại khái đại đội
tạm thời đang đầy đủ quân số, tôi
cho thiếu úy một thằng lo ăn ngủ trước,
sau đó sẽ tính. Tôi biểu thằng tà lọt trải
poncho ngủ gần ổng. Ổng ngủ võng, tôi mới
ra làm gì có võng. Cứ bám theo gần ổng, tuổi thọ
của tôi biết đâu có thể nâng lên được
một cấp!'
Sáng hôm sau, ngày 25 tháng 4, gần trưa có thượng sĩ
phát lương từ Sài Gòn ra, ông ta phải trèo lên chỗ
đóng quân mà phát lương. Thế ông ta từ Sài Gòn ra và
lên ngọn đồi này bằng cách nào, tôi không biết! Ai
cũng có phần, cũng có tiền nhưng tôi thì không.
Mẹ, mới ra binh chủng Dù có một đêm làm gì có tên
trong sổ quân đòi lương với phạn! Thấy
tôi đứng xớ rớ gần đó, đại úy
của tôi ngoắc lại hỏi còn tiền xài không? Tôi
đang đói meo đây, ngày ra trường chọn về
Nhảy Dù, hết mẹ nó tiền, chơi luôn chiếc
nhẩn Võ Bị vào tiệm cầm đồ, mua ngay
bộ đồ Dù và những thứ lỉnh kỉnh khác.
Bây giờ đứng trước mặt ông, tôi chỉ có
tờ giấy cầm đồ, giấy chứng nhận
tại ngũ, bằng Dù, căn cước Sinh Viên Sĩ
Quan, và thẻ lãnh lương củ rích của
trường. Nói tới thẻ lãnh lương này mới
ngán ngẫm, lương tháng nào ra cũng bị anh Ba Râu
chủ câu lạc bộ trong trường thò bàn tay vào và
ngắt đi hơn một nửa. Đại úy thấy
tôi khổ sở ca bài con cá, bèn nói ông thượng sĩ
phát lương, cho tôi mượn trước 5000
đồng.
Úi chà, Nhảy Dù số một, Đại Úy Hiệu
của tôi ‘number one’!'
Có tiền, tôi và thằng đệ tử xuống ngay xóm
dưới chân đồi mua sắm liền. Chẳng mua
gì ngoài ba thứ như mì gói, tôm khô, thuốc lá. Thiếu gì
thì thiếu chớ không thể thiếu được
thuốc lá. Tối đó, tôi có một đêm huy hoàng. Mà
lạ, kế bên chỗ tôi nằm có thằng đệ
tử của Đai Úy Hiệu đào ngũ mất tiêu. Tôi
quên nói Đại Úy Hiệu có tới ba bốn thằng
đệ tử lận. Cái thằng tía lia tối qua nghe nó
kể chuyện rất rành rọt về tiếng chim kêu,
chim hót. Chỉ cần nghe tiếng con chim kêu hót là nó
biết tỏng ngay con chim gì. Nó kể ra vanh vách tên
những loại chim ở dưới quê của nó, thân
thể, màu sắc, lông lá. Nó diễn tả qua tiếng huýt
gió điêu luyện, nghe như có nhiều loại chim
đang bay đậu quanh tôi, những con chim hót đêm
khuya! Đúng hơn nó chính là chim, hôm nay chờ lãnh
lương xong chim bay biền biệt. Tối nay tôi không
còn nghe tiếng chim hót.
Ngày 26 tháng 4, trong ngày an lành, không có nhiệm vụ gì làm, tôi
lang thang bên triền đồi. Đồi núi vắng
lặng, gió hiu hiu, tôi muốn ngủ nhưng không dám
ngủ. Tôi chợt nhớ về trường, về bè
bạn. Giờ tôi cô đơn thật, không bạn bè
chọc cho nó chưởi, cho nó cười.... Có mất
đi nhưng sinh hoạt hằng ngày, đùng một cái
thay đổi hoàn cảnh thấy luyến tiếc nhớ
thương. Nhớ cô đào mà cách đây một tháng
vẫn còn tay trong tay, nhớ da diết. Tối 26, cộng
quân bắt đầu pháo kích đến trung tâm Vạn
Kiếp, thị xã Phước Tuy và vào Trường
Thiết Giáp. Tôi không biết trường này bị bao nhiêu
trái nhưng tôi biết bị nhiều lắm, hình như
Trường Thiếu Sinh Quân cũng bị lây.
Đạn pháo kích lẫn đại bác được
bắn đi từ hướng Long Khánh. Cả đại
đội, kẻ đứng người ngồi nhìn
bất động. Tôi nghe được tiếng
đạn xé gió rào rào đến mục tiêu, tôi không nghe
tiếng ai kêu khóc chỉ nghe tiếng đạn bay,
lằn chớp, tiếng nổ.
Sáng 27, đại đội lục đục kéo xuống
quốc lộ. Sau hai ngày 'do not thing' và ngắm pháo bông
tối qua, tới rã rời . Vừa tới quốc lộ
bị ngay những tên cộng quân đóng chốt bắn
loạn cào cào. Cũng may không ai bị thương, tôi
cũng không biết trung đội nào ở phía
trước đã bứng cái chốt ấy, như tôi
đã nói, tôi chưa được giao nhiệm vụ gì
ngoài đi theo sau lưng ông đại đội
trưởng, nên không biết gì nhiều ngoài cái lưng
của ổng. Băng qua quốc lộ, có những
tiếng súng dồn dập, tôi không đoán được
AK hay M16 và… ô hay, ông Đại Úy bùa hộ mạng của
tôi biến đâu mất tiêu! Tôi nhìn thằng đệ
tử (cũng may còn có nó) hỏi nó có thấy ổng ở
đâu không? Nó nhìn tôi lắc đầu và lắc
đầu. Tôi biết khuôn mặt tôi lúc bấy giờ
chắc khó coi lắm cho nên nó cứ nhìn tôi mà lắc
đầu hoài. Không biết ổng đã qua bên này chưa?
Trở lại bên đó, eo ơi chắc bỏ mạng.
Nhìn quanh tôi thấy ổng từ xa sau những gò
đất. Mẹ, ổng lẹ thiệt! Mới đó
rẹt rẹt băng qua quốc lộ, đã ở
tuốt đàng xa. Tôi thật lờ quờ! Có những
tiếng nổ lớn trên quốc lộ hướng
về Vũng Tàu. Tôi được biết Thủy Quân
Lục Chiến đã đánh sập cầu Cỏ May
để chận tanks địch vào Vũng Tàu. Họ
được lệnh ở đó chờ toán cuối cùng
của Tiểu Đoàn 8 qua cầu rồi đánh sâp.
Tiểu Đoàn 8 đi qua nhưng Đại Đội 83
thì không vì bị địch đóng chốt ngăn cản
phải khựng lại lúc sang. Mon men đến chân
cầu hy vọng có phương tiện nào đó còn sót
lại để qua sông chợt thấy bóng dáng
địch quân, mà là quân chính quy (chúng mặc đồng
phục).
Đơn vị được lệnh tháo lui,
địch quân cũng nhận ra sự có mặt của
lính Dù không quên tiễn chúng tôi bằng những tràng
đạn dòn tan. Chừ tôi đã phân biệt được
đâu là AK và đâu là M16. Đơn vị lẩn nhanh vào
cánh rừng sau lưng chạy dọc theo con sông (sông Cỏ
May?). Cánh rừng có rất nhiều cây không lớn lắm,
cành lá khẳng khiu, được cái rậm rạp
đủ che chở cho đơn vị lẩn tránh. Giá
như đơn vị giờ này chạy ra quốc lộ
chắc chắn địch quân đang dàn hàng ngang chờ
đợi. Có lẽ chúng cho rằng một con sông
trước mặt nước chảy xiết, bên kia sông
khu rừng sát, lính Dù không đường lựa chọn
phải ra lại quốc lộ và đầu hàng.
Đầu hàng lúc này đồng nghĩa với tự sát!
Do đó chúng 'enjoy' nằm chờ trên quốc lộ không
thèm truy kíck chăng? Dọc theo con sông một lúc khá lâu khi
biết khoảng cách đã rất xa với chân cầu
Cỏ May, Đại Úy Hiệu ra dấu cho toán quân
dừng lại sau khi tìm được chỗ thích hợp
để qua sông. Bây giờ trời đã bắt đầu
về chiều, ánh nắng không còn gay gắt soi mói chui vào
lớp áo Dù ướt đẫm mồ hôi của tôi
nữa. Tôi hờ hững nhìn dòng sông dưới chân,
giờ tôi mới có dịp ngắm nó. Nó đục
ngầu như hồ Than Thở nhưng không nhu mì hiền
dịu. Nó mạnh bạo cuốn trôi những chiếc lá
úa vàng và tàn nhẫn dập vùi vào lòng nước. Trong ngày
chưa có cái gì vào bụng, tôi đói nhưng không muốn
ăn mà cũng đâu có rảnh rỗi. Đại Úy
Hiệu rất ít nói, lúc ổng nói thường kèm theo cái
lệnh:
- Thiếu úy, coi chuẩn bị qua sông. Tối đến
mình vào rừng sát.
Tôi “dạ” nhỏ rồi phóng nhìn khoảng cách giữa hai
bờ, cũng không xa lắm, đôi bờ cách nhau
mươi thước.
Chuyện nhỏ, tôi chuyển lời của đại úy
lại cho thằng đệ tử, mặt nó xanh như
tàu lá chuối run giọng:
- Phải bơi qua sông hả Thiếu Úy?
-Em… em không biết bơi!
- Cái gì? Mầy không biết bơi?
- Thôi chết, tôi chỉ biết bơi đại khái
chớ đâu có giỏi. Quân đội của mình huấn
luyện ở mỗi một người quân nhân phải
biết học lăn lộn, bò trường, bắn
đủ loại súng nhưng không dạy người quân
nhân qua lấy một lần học bơi căn bản.
Nó không biết bơi, mẹ nó, làm sao đây? Bài học
vượt sông từ trường Võ Bị chợt
đến, tôi áp dụng ngay: - Mầy mở ba lô lấy
poncho trải ra, thêm cái của tao nữa cho chắc ăn,
gom đồ bỏ hết trên đó. Mầy nhớ ôm túm
đầu poncho cho chặt tao sẽ bơi kéo mầy qua
sông. Nhớ ôm chặt đó! Thấy có nhiều
người làm theo như tôi nhưng cũng có nhiều
không làm. Họ tự mình ên lội chậm chạp mò mẫm
qua sông. Nước khá sâu và chảy xiết.
Qua gần giữa giòng, trắc trở bắt đầu
xảy ra. Vài người yếu sức la cầu cứu
và sự hỗn loạn đã đến. Lên
được bờ bên kia rồi tôi trở lại
cứu thêm một hai người khác. Thật quái ác trên
bờ sông bên này không có nhánh cây nào đủ dài để có
thể đưa ra dòng sông cho họ nắm kéo vào. Tôi
đuối sức nhìn những cánh tay tuyệt vọng
từ từ chìm vào dòng nước... Tội nghiệp cho
những người lính Dù tôi không biết tên đã vĩnh
viễn nằm lại nơi nầy! Bên nầy sông là cánh
rừng thưa, cây cối rất thấp. Đây rồi
rừng sát, cây cao không quá đầu người, trời
nước bao la, giang sơn của loài cò. Xa xa sau những
hàng dừa xanh, vài căn nhà tranh lưa thưa dọc theo
quốc lộ. Đơn vị phải đi vào chỗ
chết tiệt này để tìm ra con đường
sống sao đây. Đợi trời thật tối chúng
tôi bắt đầu đi vào rừng sát, nước lúc
đầu còn thấp chưa ngập quá giầy nhưng
mau chóng cao dần. Những bước chân của tôi
từ từ nặng nhọc, hai tay bắt đầu
thấy mỏi và cây súng M16 trở nên nặng hơn,
cuối cùng nó nằm trên nón sắt ngon ơ. Trời
về khuya, mực nước cao hơn thêm có chỗ cao
tới rún. Cuộc đời tôi không lẽ phải
chấm hết nơi nầy!
Đại úy Hiệu cho dừng quân, mọi người
tự tìm cho mình những thân cây và bám vào. Khổ nổi
ở đây không có cây nào cao hết, cho dù có tìm
được cũng không đủ cao mà ngồi rút chân
ra khỏi nước. Tôi trông thấy Đại Úy
Hiệu ngoắc thằng đệ tử của ổng
lại gần và thấy nó đưa cho ổng chai
rượu Cognac, ổng tu một hơi dài sảng khoái.
Tôi không thèm rượu nhưng lúc này nếu
được mời tôi cũng làm một ngụm cho
ấm lòng, bỗng dưng tôi thèm một hơi thuốc,
khói thuốc có lẽ sẽ tăng thêm nghị lực cho
tôi trong hoàn cảnh này. Cái cảnh ở trong nước
như thế này rõ thật chán, nằm không được
ngồi cũng không xong mà đứng một chỗ sẽ
bị lún. Cha mẹ ơi! Tân Khóa Sinh đã khổ, cảnh
này còn khổ hơn!
Đêm thật tĩnh mịch! Chỉ có những tiếng
động do lính Dù gây ra, nhưng sau đó nhanh chóng trả
lại sự yên tĩnh. Có tiếng mái chèo khua đâu
đây nhịp nhàng khuấy động, âm thanh của
một con thuyền đang lướt trên nước.
Thuyền ai đi trong khuya trên biển nước mênh mông
này nhỉ? Dưới ngọn đèn bấc mù mờ treo
đu đưa bên mạn thuyền, con thuyền từ
từ hiện ra, tiếng mái chèo vẫn đều
đều khua động trên nước. Người trên
thuyền chưa biết có sự hiện diện của
lính Dù đang trố mắt ngạc nhiên nhìn nó đến.
Nó không đến vì chúng tôi, nó chỉ tình cờ đi ngang
qua và tiếng mái chèo vẫn đều vang trên sóng
nước. Tôi nhìn Đại Úy Hiệu thăm dò, chắc
ổng đang suy nghĩ tính toán dử lắm, và ổng
quyết định cho lính ra chận thuyền. Nếu là
thuyền của dân sẽ nhờ họ đưa lính Dù
vào bờ, thuyền nhỏ vô ra hai ba chuyến rồi
cũng vận chuyển hết toán lính vào bờ. Nếu là
thuyền của địch quân, tất nhiên lính Dù sẽ
tấn chiếm thuyền và dùng thuyền làm sinh lộ.
Đằng nào cũng phải có thuyền. Đang lúc khát
nước gặp trời mưa, buồn ngủ gặp
chiếu manh, đang lúc chết đuối có thuyền ra
giúp. Ối giời! Đặc ân đó trời ban cho.
Thế nhưng... trên thuyền có hai vợ chồng già và
một xác chết đàn bà, họ nói đưa cái xác
đó vào làng trước khi trời sáng nên họ phải
rời nhà lúc giữa khuya và chỗ họ đi không
phải chỗ chúng tôi đến. Đại úy Hiệu cho
họ đi có lẽ vì xác chết kia chăng? Ổng không
muốn bị dây dưa báo oán hay ổng tội nghiệp
cho đôi vợ chồng già nọ. Tôi biết người
lính trên chiến trường thường hay tin vào
huyền bí của những người khuất mặt,
khuất mày phù hộ họ, cho người còn sống
được tai bay nạn khỏi. Chúng tôi cũng mau
chóng rời địa điểm, đâu biết
được nếu họ là người phía bên kia.
Thủy triều hạ xuống khi trời gần sáng,
đơn vị không gặp những trở ngại nào
khác và bình yên vào Vũng Tàu trưa ngày 28 tháng 4. Vũng Tàu,
thành phố lần đầu tôi đặt chân
đến, cái tên thật bình dị, mộc mạc. Không
khí chiến tranh chưa tràn đến, người dân
vẫn sống, vẫn buôn bán, vẫn ăn uống
nhưng chưa đến không có nghĩa không đến.
Trên khuôn mặt mọi người ai cũng hoang mang, tin
chiến sự nóng dồn dập trên những nẻo
đường mà toàn tin bất lợi cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa. Nhảy Dù cũng không thoát khỏi
cảnh ngộ này. Lính Dù bị dồn nén co cụm không lối
thoát khi đi vào Vũng Tàu, những cấp chỉ huy Dù
chắc cũng thấy vậy nên hành động
đầu tiên khi đến đây là kiểm soát hết
tàu bè trong vùng. Địch quân chưa bao giờ kiểm soát
được vùng biển, vùng duyên hải, họ không có
khả năng đó. Đường bộ hầu như
địch quân đã hoàn toàn kiểm soát, quốc lộ
bị đứt đoạn, bầm dập chia từng
mảnh nhỏ. Đường trên trời, coi như
mộng tưởng, mọi trực thăng vận
đang bận rộn cho những cuộc di tản hành
trình ra hạm đội đâu có dư cho Nhảy Dù,
nếu có chỉ một chiếc nhưng là'one way ticket'.
Tại sao lính Dù phải đi vào Vũng Tàu? Cho đến
bây giờ tôi vẫn vương vấn hoài câu hỏi
đó. Binh pháp ngàn xưa không bao giờ hành quân vào ngỏ
cụt ngoài dụng tâm dụ địch hoặc có
những phương kế thần sầu. Vũng Tàu,
một ngày êm dịu nhưng cũng là điềm báo
trước cho những ngày oi bức sắp tới. Tôi
không có gì làm, lang thang trong bộ chỉ huy hoài cũng chán
(đã nói tôi chưa có nhiệm vụ mà). Bộ chỉ huy
tạm thời nằm trong một trường trung
học, tên gì (?) không tài nào nhớ nổi. Đại
đội tôi là đơn vị cuối cùng bị
thất lạc một ngày một đêm trong rừng sát.
Về muộn không có nơi cư ngụ nên
được nằm gần Đại Bàng. Tôi và
thằng đệ tử lẻn ra ngoài tìm đến các
trại tạm cư cho những người ngoài Trung vào,
nhất là những khu tạm cư người Đà
Nẵng. Thời buổi tao loạn, ai đi tìm
người thân cũng được những ánh mắt
thiện cảm nhưng tiếp theo đó chỉ là
những chuỗi lắc đầu. Họ được
chỉ định tạm trú ở Vũng Tàu từ sau
cuộc di tản kinh hoàng ngoài Đà Nẵng, những ai có
thân nhân ở miền Nam họ đã sum hợp và tá túc
nơi khác. Những người còn lại rất khổ
nếu không nói là thê thảm, chính quyền lúc đó bề
bộn bởi chiến cuộc cáng đáng nào xuể,
cũng chẳng cơ quan từ thiện nào lưu tâm
tới.
Không tìm ra một ai quen, tôi lững thững quay lại
bộ chỉ huy, ngoài chuyện tìm thân nhân tôi chẳng có
mục đích nào khác. Vũng Tàu quá mới mẻ với
tôi, người trên đường ai cũng bước
vội, dưới đường Honda ngược xuôi
như mắc cửi chở đầy đồ
đạc. Sắp sửa có di tản như tôi đã
thấy từ Đà Lạt về Bình Tuy, ở đây
quốc lộ đã bị cắt rồi, di tản cách nào
khác hơn đường biển. Xa xa tôi nghe tiếng
đại bác vọng về. Tối 28 tháng 4, nhiệm
vụ đầu tiên của tôi là tuần tiểu.
Chuyện dễ dàng, không phải tôi vẫn thường
hay tuần tiểu trong trường ở năm thứ 3
khi lên ca trực hay sao! Đêm nay trời mưa dai dẳng,
cùng đi tuần với tôi là một Hạ Sĩ Quan, mang
lon trung sĩ, tôi không nhớ tên. Đến một vọng
gác không thấy lính gác, tôi quay sang anh ta:
- Mày vô trong coi ai gác ở đây vậy?
Người trung sĩ cùng tuần tra với tôi chưa
kịp nhón gót, từ trong phòng học của trường
trung học nay lính Dù biến thành nơi ăn ngủ, phóng
nhanh ra một dáng người hấp tấp chưa
kịp đội nón sắt:
- Dạ thưa em...
Lúc này anh ta nheo mắt, không nhìn vào tôi nhưng nhìn vào cổ
áo của tôi và lặp lại:
- Dạ thưa em, Thiếu Úy!
Tôi chưa nói câu nào, người trung sĩ xấn tới:
- Đ.M. ai cho mầy ngủ? Kế đó là những cú
đấm đá tới tấp lên người lính gát
chểnh mảng ấy. Tôi vội bước đi, vì tôi biết
như thế người trung sĩ sẽ theo tôi và
người lính gát kia đở bị đòn hơn.
Thưa quí vị, tôi kể chuyện nhỏ nhặt này
để thấy kỷ luật cứng rắn không kém
phần tàn bạo trong binh chủng Dù, người lính Dù
ngoài trận tuyến rất tuân thủ lệnh
thương cấp, cho dù biết tuân lệnh đi vào
chỗ hiểm có thể không còn mạng trở ra.
Chẳng lẽ sau này tôi cũng trở nên thô bạo như
vậy hay sao? Kỷ luật trong trường là hình
phạt, ngoài chiến trường kỷ luật cho lính
dưới quyền phải là những trận đòn
ư? Hạ sĩ quan đã có quyền hạn của
một võ sĩ thử hỏi người lính Dù nào dám cãi
lệnh cấp trên. Oai hùng nào cũng có cái giá phải
trả.
Sáng 29 tháng 4, Sài Gòn cho ra một trực thăng đậu
trong sân trường, tôi thấy có trung tá nói chuyện qua
máy bực dọc hơi lớn tiếng (có thể Trung tá
Nguyễn Văn Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng?).
Người đối thoại bên kia máy là ai tôi không
biết, chỉ nghe trung tá hằn học nói nhiều
thứ lắm, tôi không thể nào nhớ hết
được. Đại khái có câu quan trọng tôi nghe lõm
bõm:
- ....tôi không thể bỏ đám con ở đây
được... không... không phải đem đi hết...
chúng tôi sẽ chết tại đây... tôi cho nó về còn tôi
ở lại đây...
Tôi lặng người ngồi thừ ra mông lung suy
nghĩ. Vậy là tử thủ, cuộc đời tôi
đọc nhiều truyện hể có tử thủ trong
đó, tôi sản khoái 'enjoy' đọc người hùng
tử thủ, xem thử người hùng phải chết
như thế nào. Có biết đâu lát nữa đây tôi
sẽ là một trong những vai chính tử thủ chốn
này.
Tử thủ! Ôi Phan Nhật Nam ơi! Chuyện của ông
viết mùa hè năm nào, mùa hè năm này có tên tôi đó ông!
Toàn thân nghe lạnh tôi biết tôi đang run cũng may tôi
đương ngồi. Câu chuyện điện đàm
của Trung Tá tôi có thể đoán già đoán non. Ổng
không thể bỏ lại để ra đi một mình,
một là bốc hết Lữ Đoàn về Sài Gòn, hai là
tử thủ Vũng Tàu. Đường bộ coi như
không thể nào. Giá như vài hôm trước thay vì rút vào
Vũng Tàu, di chuyển toàn thể xuôi theo quốc lộ
về Sài Gòn may ra còn kịp. Một khi đã vào Vũng Tàu,
cầu Cỏ May mình không giựt sập, địch quân
cũng giựt sập và an tâm nhốt Lữ Đoàn 1 trong
Vũng Tàu. Vô hình chung địch quân đã loại Lữ
Đoàn 1 ra khỏi cuộc chơi. Giờ thì địch
quân rảnh tay dốc toàn lực tiến về thủ
đô. Cho vài quân canh chừng bên kia cầu Cỏ May, không
cần truy kích, vài hôm sau lính Dù sẽ tìm đường
vượt biển và họ không động thủ
cũng chiếm được Vũng Tàu như chiếm
Đà Nẵng. Giây lát sau, chiếc UH1 bỏ đi mất
hút sau những hàng cây xanh. Đây là chiếc trực
thăng cuối cùng đến từ Sài Gòn. 'One way ticket'
cho những ai đi trên đó và không bao giờ trở
lại.
Vài giờ sau chúng tôi di chuyển ra Bến Đá bằng xe
GMC. Bến Đá, cảnh tượng nhốn nháo ồn
ào. Dân chúng bị chận lại từ phía ngoài, tôi thấy
rõ vẻ hoảng hốt lo âu trên từng khuôn mặt. Tình
cảnh này giống như mấy tháng trước, chúng
tôi, những sinh viên sĩ quan từ Đà Lạt di tản
về và được ưu tiên vào Bình Tuy. Tôi xót xa nhìn
họ, đọc được những gì họ mong
mỏi trong ánh mắt, họ mong được như
chúng tôi, đi theo chúng tôi. Người ta gọi là Bến
Đá, phải rồi đá nhiều quá nằm kế bên
ngọn núi nhỏ cũng đá nhiều hơn cây, có
những tảng đá lớn rải rác đây đó. Trên
bờ ngổn ngang những xe quân đội, một ít xe
tư nhân nằm bơ vơ hứng bụi. Chủ nhân
của những chiếc xe ấy chắc đã đi
rồi nếu không cũng loanh quanh đâu đây trên
thuyền. Toàn thuyền đánh cá, lớn nhỏ có đủ,
trên ghe có bóng dáng lính Dù. Bây giờ tôi đã biết,
chuyện tử thủ hồi sáng là không có thật, ông
Trung tá chỉ dùng nó hù người Sài Gòn. Mọi chuyện
lui quân đã có chuẩn bị từ trước, nếu
không được trực thăng bốc về cũng
còn đường biển nên hai hôm trước Dù chận
hết tất cả các tàu đánh cá nào còn sót lại trên
Bến Đá, cho dầu nhớt đầy đủ và
lính Dù ăn ngủ trên tàu với người tài công
cũng như với gia đình của họ nếu có. Và
họ chờ đợi cho ngày hôm nay. Chờ khi Lữ
Đoàn kéo ra Bến Đá gần đầy đủ,
địch quân bắt đầu chào mừng tới
tấp những cơn mưa pháo.
Lần này đạn pháo không bay ngang đầu tôi như
ba hôm trước mà nó rót xuống ngay trên đầu tôi.
Trái nổ bên này, trái nổ bên kia. Phó thác cho ông bà phù hộ,
tôi ôm nón sắt mà phóng không định hướng. Loáng
thoáng thấy có cái gì trước mắt tôi nhào vô núp không
suy nghĩ, và từ đó định thần quan sát coi có
vật thể nào khá hơn mà thay đổi. Kia rồi có
tảng đá lớn đàng xa, tôi như bay chạy
tới. Nhiều tiếng la lớn:
- Có ‘đề lô’ trên núi.
Tôi ráng mắt nhìn lên núi, chả thấy ai, có lẽ bị
lộ nên họ đã ẩn núp đâu đó. Tiếp theo
lính Dù phản pháo. Nào súng cối, B40, M16 bắn túi bụi
lên núi. Đằng sau những tảng đá lớn, đá
nhỏ, thân cây lớn bé, chơi tuốt. Nhờ vậy
pháo địch thưa dần, lính Dù được
lệnh lên tàu và cấp tốc rời bến. Tôi lạc
mất Đại Úy Hiệu từ đây. Chiếc tàu tôi
và thằng đệ tử nhảy lên chỉ có một
trung đội trưởng Thiếu Úy Thủ Đức,
tôi không nhớ tên, anh ta cùng đại đội với
tôi, ngoài ra toàn lính Dù và vài hạ sĩ quan. Thấy tôi
tiến vào buồng lái, có anh lính Dù kề tai tôi nói nhỏ:
- Ở trỏng có một chuẩn úy Thủy Quân Lục
Chiến, tôi đuổi hắn lên bờ nhưng hắn
không chịu lên! Sau một hồi nói chuyện tôi biết
anh ta đã bỏ ngũ muốn rời Vũng Tàu.
- Anh có biết chúng tôi đi đâu không mà đòi đi theo?
Tôi nói thế chứ thật ra tôi cũng đâu biết
Lữ Đoàn sẽ đi về đâu? Ở bộ
chỉ huy được lệnh ra Bến Đá, tới
Bến Đá chưa nhận chỉ thị gì bị ăn
pháo tùm lum, rồi có lệnh lên tàu. Tàu hấp tấp
rời bến, chiếc sau chạy theo chiếc
trước, có những chiếc đã tự ý rời
cảng lúc bị pháo kích thấy chúng tôi ra vội nhập
đoàn. Tôi dặn ông chuẩn úy ngồi trong góc
đừng có đi lộn xộn, cấp trên mà thấy
giụt ông xuống biển ráng chịu, còn tôi quay ra
bắt chuyện với lão tài công:
- Sao rồi, gia đình ông đâu?
- Mấy ông có cho tôi rời tàu đâu mà rước. Thì ra
hai hôm trước Dù làm áp lực, giam lỏng lão tài công. Lão
nói, lão năn nỉ quá trời nhưng họ không cho,
sợ ông lên bờ rồi trốn biệt lấy ai lái tàu
ra khơi. Trời về chiều, gió biển hiu hiu tôi
thật sự thoải mái. Tay vịn thành tàu tôi nhìn lại
Vũng Tàu. Tôi chỉ thấy Bến Đá, vẫn còn bóng
dáng nhiều người qua lại trên bến, vẫn còn
nhiều chiếc thuyền con chòng chành trên sóng biển và
lưa thưa vài tàu đánh cá còn sót lại gật gù theo
chiều gió. Có một lính Dù lân la đến gần tôi
tươi cười:
- Chào Thiếu Úy, em cám ơn Thiếu Úy đã cứu em khi
bơi qua sông, em đâu có ngờ quần áo mặc trên
người thắm nước nặng chình chịch,
bơi quải quá chịu không thấu.
Tôi không nhớ anh ta nhưng có nhớ trên sông Cỏ May
thấy có người sắp sửa chết chìm, tôi
thuận tay nắm cổ áo kéo anh ta vào bờ. Lần
đầu tiên tôi ra tay nghĩa hiệp. Sáng 30 tháng 4 Tàu
cập bến tôi cũng vừa thức dậy. Tôi hỏi
lão tài công đây là đâu, ông ta cộc lốc trả
lời Gò Công. Rảo mắt nhìn quanh, trên nước
đủ loại lưới cá giăng mắc đó
đây, có loại như những hàng rào trên bờ đứng
xiêu vẹo, nghiêng ngã không theo một thứ tự nào, có
loại là một mảnh lưới to lớn vuông vắn
được treo trên mặt nước qua bốn góc bởi
những cây sào tre dài, kế bên là một cái chòi có mái lưa
thưa phủ rơm rạ, chắc nơi này dùng nơi
hạ lưới hay kéo lưới lên sau một thời
gian nào đó ngâm lưới sâu dưới nước.
Đó đây một vài chiếc xuồng con, có chiếc neo
gần bờ, có chiếc trên bờ nằm trơ trọi
đưa lưng phơi nắng. Bước chân lên bờ
tôi cảm thấy lạc lõng trong đám lính Dù.
Hôm qua ở Bến Đá Tiểu Đoàn 1, 8, 9, 3, Pháo Binh Dù
và Đại Đội 1 trinh sát vì tình hình lộn xộn
mạnh ai nấy lên tàu, bây giờ đang tìm nhau về
điểm họp. Từ lúc theo Đại Đội 83 xuống
núi Phước Tuy, ở mỗi thời khắc trôi qua là
những biến chuyển lớn tôi phải đón
nhận. Những người cùng chung đại
đội tôi còn chưa nhận diện đầy
đủ huống hồ nguyên cả Lữ Đoàn.
Những tiếng động va chạm của vũ khí hòa
lẫn với những tiếng bước chân, tiếng gọi
nhau, những tiếng chưởi thề...
Tất cả như đang tìm cách khuấy nhiễu
cảnh vắng lặng buổi sáng trên miền đất
Gò Công hiền hoà. Chung quanh chúng tôi không một người
dân qua lại nhưng chắc chắn họ đang dán
mắt theo dõi đoàn lính Dù này đằng sau tấm vách,
sau khung cửa, từ trong những mái nhà tranh op ẹp và
dĩ nhiên sẽ không thiếu những câu hỏi: Họ
từ đâu đến, đến đây làm gì và sẽ
đi đâu? Tôi nhìn những lối mòn đưa vào làng,
những lối mòn uốn cong theo bờ mương, con
rạch nhỏ dẫn đến những hàng cau xanh và mất
hút sau dãy dừa nước chen lấn với những cây
bần. Chừng ngần những thứ đó đang bao
bọc, ấp ủ những mái nhà tranh bên kia, có
người dân quê lam lũ qua nhiều năm vẫn còn
lặn hụp trong chiến tranh.
Quê tôi ở gần đây, cách Gò Công một giòng sông sâu
phải qua một lần phà, nước quanh năm
chảy xiết chất chứa muôn vàn lục bình lúc nào
cũng nhảy múa trên sóng nước. Cần
Đước, quê tôi, cái tên nghe rất quen mà cũng
thật xa lạ, chả là ba tôi tài xế công nhân hỏa xa
bị đì đổi ra Đà Nẵng từ năm 1958.
Tôi sống và lớn lên tại xứ Đà, Quảng Nam.
Dạo trước khi vào Võ Bị, tôi có về quê nội
Cần Đước đôi ba lần nhưng lần nào
cũng sáng đi chiều về, vì lý do an ninh trong khu
vực tôi không thể ở lại qua đêm. Nắng
đã lên cao có thêm những chiếc tàu đánh cá từ
Bến Đá chạy lạc chậm chạp tiến vào
bờ. Khoảng trưa, theo chân thằng đệ tử
về điểm tập họp của tiểu đoàn,
tôi không gặp Đại Úy Hiệu chỉ thấy Thiếu
Tá Thanh (Nguyễn Viết Thanh?) lên bục - bục,
tiếng thường hay gọi trong Trường Võ Bị
dùng ám chỉ người cán bộ tân khóa sinh đứng trên
cao chấn chỉnh hành tội đám Tân Khóa Sinh phía
dưới -
Thiếu Tá nói nhiều nhưng tôi không thể nào nhớ
hết được. Giọng ông buồn pha lẫn xót
xa, đằng sau ở những lời nói âm thanh nghe
như nất nghẹn, thỉnh thoảng ông nhẹ
ngước mặt lên cao như cố ngăn không cho
đôi hàng nước mắt tuôn. Riêng tôi không biết
tự lúc nào nước mắt tôi đã tuôn. Tôi không
thể che dấu những giòng nước mắt tủi
nhục đầu đời lính. Quanh tôi ai cũng sụt
sùi, thằng đệ tử tôi rống to hơn bao
giờ hết. Ôi! Việt Nam ai gây ra bao nhiêu điêu tàn,
miền Nam Việt Nam chúng tôi ai gây tang thương!
Dương Văn Minh, năm 63 tháng 11 ngày 2, trên làn sóng phát
thanh Sài Gòn tuyên cáo chấm dứt nền Đệ Nhất
Việt Nam Cộng Hòa. Cũng ổng, hôm nay 30 tháng 4, khai
tử nền Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa.
Chua chát thay! Sau giây phút xúc động, thiếu tá chậm
rãi, Dương Văn Minh kêu gọi chúng ta buông súng nhưng
chúng tôi thì không. Lữ Đoàn quyết định giao cho
mọi người tự giải quyết, ai muốn
đi đâu thì đi, về đâu thì về, cứ coi
như chúng ta tan hàng. Riêng Lữ Đoàn sẽ về vùng 4
cùng Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam lập phòng
tuyến cuối cùng. Ai ở lại sẽ cùng Lữ
Đoàn rời nơi này vào chập tối. Tôi tìm một mô
đất ngồi nghỉ chân. Tôi muốn ghi lại
tất cả những gì nghe và thấy hôm nay nhưng không
thể nào, đầu óc tôi vẫn còn đặc quánh
lại bởi những chữ đầu hàng, mất
nước. Chao ơi! Bi thảm quá, đời
người có bao lần mất nước. Năm 54
miền Bắc di cư (di tản cũng thế thôi),
họ còn cơ hội làm lại cuộc đời trong
miền Nam. Bây giờ miền Nam cũng mất nốt,
người của hai miền Bắc Nam mai này rồi
cũng cùng chung một số phần.
Miên man suy nghĩ chưa tìm lối thoát, chợt thấy có
thằng bạn cùng khóa đang khật khưởng đi
ngang. Tôi biết nó cũng về Nhảy Dù nhưng không
nhớ nó về đơn vị nào. Tôi vẫn nhớ
như in hình ảnh khất khưởng của nó ngày nào
trong trường, ngồi trên bàn trong phòng ôm cây đàn
chơi classic, nhìn những ngón tay của nó loáng thoáng bún
nhẹ dây đàn, miệng ngậm ống vố phì phèo khói
thuốc, trông như lãng tử nhân. Hôm nay phong độ
ấy không thấy ở nơi nó nữa, tôi hấp
tấp gọi tên nó:
-Ê Vinh, Vương Khắc Vinh.
Nó quay nhìn tôi, tôi nhìn nó, hai thằng nhìn nhau thay cho câu chào
hỏi, nó chọn con đường về Sài Gòn. Ừ,
thôi mày về. Ít ra mày cũng còn một gia đình
để về, tao bây giờ con bà phước theo Dù
về vùng 4. Chuyện mai sau hẳn tính. Tôi nhớ có
gặp Nguyễn Văn Nghị (cũng bạn cùng khóa) sau
đó nhưng không nhớ đã nói với nhau những
lời nào. Mẹ, lúc đó đầu óc có còn tỉnh táo
đâu mà hàn huyên tâm sự. Vậy là tôi dứt khoát theo Dù
về vùng 4, thằng đệ tử cũng thế.
Chờ đến tối khuya chưa thấy Lữ
Đoàn nhúc nhích gì hết, tôi bàn với nó lên tàu đánh cá
ngủ cho chắc ăn. Người tài công gặp lại
tôi vội hỏi:
- Mấy ông đi Cần Thơ?
Tôi nhún vai ra chìu không biết, mà thiệt tôi đâu có
biết đi chỗ nào, chỉ nghe nói về vùng 4. Tối
nay những người còn lại chuẩn bị ra
khơi không chia canh gác. Tôi chợp mắt ngủ
được một lát chợt có nhiều tiếng
bước chân lên tàu, tôi choàng tỉnh dậy và nghe
giọng nói lớn:
- Ông tài ơi nhổ neo!
Lên tàu là một Thiếu Tá (tôi không nhớ tên, có thể là
Hồng), một Đại Úy (Huệ?) và những lính Dù
thân tín của mấy ổng. Tôi vội đứng lên chào
tay nhưng không xưng danh. Vị thiếu tá mĩm
cười chào lại nói nhỏ:
- Cám ơn! Và kể từ đó cho đến cuối
cuộc hành trình ông không nói hay ra lệnh cho tôi làm chuyện
gì cả. Còn tôi, tôi không có lý do gì để bắt chuyện
với ông ta. Có một trục trặc nhỏ, khi tàu
bắt đầu chạy vì trời còn tối, không
thấy dàn lưới đánh cá của dân nên ủi
sập, cũng may lưới cá không vướng chân
vịt và đoàn tàu tiếp tục ra đi. Nhìn lại Gò
Công, tối đen không một ánh đèn, vài con đom
đóm lập loè trong đêm khuya. Tôi đâu ngờ đây là
lần cuối nhìn Vàm Láng, Gò Công. Hình như ông trời
đã sắp đặt những gì tôi đã và đang
gặp từ đầu năm 75 đều là lần
cuối, đều là chia tay.
Ngày 1 tháng 5 năm 75 Lênh đênh trên biển cho tới
gần trưa, tôi thấy lạ, tàu không có biểu
hiện gần bờ, cứ nối đuôi nhau mà chạy.
Trời trong xanh không gợn áng mây, từ chân trời
về hướng mủi tàu có một chấm đen,
rồi hai chấm đen. Nhanh chóng hai chấm đen ấy
nhắm chúng tôi bay tới và hiện ra hai chiến
đấu cơ phản lực. Họ bay thật gần,
dường như để quan sát, tôi thấy có hàng
chữ Navy trên thân máy bay. Chúng tôi được lệnh
hạ nòng súng không được chĩa lên máy bay hay lên
trời. Sau khi bay qua đầu chúng tôi một khoảng xa
họ quay trở lại, khi bay tới đoạn giữa
của đoàn tàu chúng tôi, họ chuyển đường
bay và bay đi hướng 10 giờ. Họ đến
thật mau ra đi cũng thật lẹ, không lời
từ biệt!
Tôi thấy chiếc tàu dẫn đầu chuyển
hướng 10 giờ mà đi và tất cả những
chiếc còn lại chạy theo. Hai chiếc phản lực
cơ đến chỉ hướng ra hạm đội,
thế còn vùng 4? Non hai giờ sau, quang cảnh tấp
nập hiện ra trước mắt mọi người.
Giữa biển khơi có chừng 5 chiếc tàu buôn to
lớn chứa đầy người tị nạn, vài
chiến hạm của Hải Quân Việt Nam (không nhớ
ra HQ mấy) nhưng không còn giương cờ Việt Nam
nữa, thay vào là cờ Hải Quân Hoa Kỳ, trên những
chiến hạm này cũng đầy người tị
nạn. Còn những chiến hạm của Mỹ không
thấy bóng dáng tị nạn nhưng đầy lính Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ. Ngoài ra còn có vài tàu buôn của
Việt Nam, có chiếc đầy người, có chiếc
thưa. Vài chiếc xà lan không người lềnh bềnh
trên nước. Nhiều tàu đánh cá không người lái
cũng đang trôi nổi bềnh bồng chung quanh, họ
đã di chuyển qua tàu lớn để lại trên boong,
trên mui nhiều đồ hộp, thùng mì gói, nước
uống... Có những tàu đánh cá, lớn có nhỏ có, ra
muộn chở đầy người, già trẻ, đàn
ông, đàn bà, con nít có đủ. Trên khuôn mặt mọi
người ai tôi cũng thấy như họ vừa
đến từ cõi chết. Tàu của họ chạy
chậm ngang qua tàu chúng tôi, họ nhìn chúng tôi nhưng như
không thấy chúng tôi, những con mắt không thần
sắc, những con mắt đỏ hoe hết
nước mắt, những gương mặt hốc hác,
những thân người rã rời ngồi tựa bên
những thân xác lạc hồn. Thật không còn cảnh ly
tán nào bi thương hơn mà người dân miền Nam
phải gánh chịu. Tàu nào vừa đến đều có
ca nô Thủy Quân Lục Chiến Mỹ kè theo, Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ lên tàu kiểm soát rồi hướng
dẫn họ qua tàu buôn lớn của Mỹ. Cầu thang
trên tàu lớn từ từ hạ xuống, mọi
người tuần tự được mang hành trang lên
tàu lớn nhưng đồ ăn thức uống phải
bỏ lại, dĩ nhiên đàn bà con nít lên trước.
Riêng với đoàn tàu của Nhảy Dù, Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ đối xử cách khác. Họ
không xua đuổi lính Dù nhưng cũng không cho lính Dù lên
tàu lớn. Khi tàu chúng tôi tới gần tàu lớn, Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ trên tàu lớn xua tay đi ra và
khi chúng tôi chạy vòng quanh tàu, họ ở trển cũng vòng
quanh theo, súng trên tay họ lúc nào cũng chĩa vào tàu lính Dù.
Chỉ cần một tiếng súng vô ý thức nào đó
những Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trên kia cũng
như bên chiến hạm của họ sẽ đưa
chúng tôi đi tàu ngầm ngay tại chỗ. Thế này là
thế nào, Navy hướng dẫn chúng tôi ra đây,
đến rồi Thủy Quân Lục Chiến không 'welcome'?
Chạy tới chạy lui thấy cũng không phải cách,
tàu lính Dù dồn lại nằm gần bên nhau và cứ
thế chúng tôi ngồi đó ngắm lưu thông trên
biển. Vẫn còn nhiều tàu thường dân "hớt
hải" chạy ra, một số do may mắn, một
số do trực thăng Navy 'chỉ lối đưa
đường'. Tôi nghĩ trên biển bây giờ chắc
cũng có nhiều điểm tập trung như thế này
để cứu vớt những người ra biển.
Ít ra người Mỹ, họ vẫn còn một tấm
lòng cho dù mọi chuyện bây giờ đang diễn ra
cũng đều do phép biến hóa thần thông quảng
đại của họ. Hậu quả miền Nam như
bầy ong vỡ tổ, tấm lòng này không biết vì nhân
đạo hay sám hối, mua chuộc phần nào lầm
lỗi.
Bất cứ người nào ra ngoài hải phận,
đều được Mỹ cứu vớt, ngoài
Nhảy Dù. Tối đến mọi chuyện thưa
dần rồi ngưng hẳn. Những chiếc ca nô
của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ biến mất,
trên biển chỉ còn lại chúng tôi với những
chiếc tàu không người lái, chúng tôi tìm cách cột chung
lại với nhau. Một ít lính Dù nhảy qua những tàu
trống tìm đồ ăn. Đèn trên những tàu lớn
bắt đầu cháy sáng, những ánh đèn pha từ trên
tàu lớn cũng như bên chiến hạm đều
rọi thẳng vào chúng tôi. Một đêm an bình có
người rọi đèn cho ngủ.
Ngày 02/05/1975 Trời gần sáng chúng tôi được
đánh thức qua một loa phóng thanh từ tàu lớn.
Hồi đó tiếng Mỹ của tôi cũng hay quá... nghe
ba chớp ba nháng, đại khái lính Dù muốn
được lên tàu của họ phải quăng bỏ
tất cả vũ khí xuống biển luôn cả nón
sắt!
Chúng tôi nhìn nhau, tôi nhìn Thiếu Tá, ổng nhìn qua tàu bên kia.
Không biết người nào chủ động quăng
vũ khí xuống trước nhưng sau đó tất
cả đều cho vào lòng biển.Tôi cầm cây M16
lưỡng lự vài giây, chưa một lần bắn
từ khi lãnh nó, giờ thôi cũng đành. Còn cái nón
nữa, tôi không quăng úp nó xuống biển, tôi cho nó
nằm ngửa để nó được trôi và trôi mãi vào
bờ. Ai kia nhận được coi như chứng tích
chiến tranh Việt Nam còn sót lại. Ca nô đưa toán
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên tàu xem xét coi vũ khí,
nón sắt đã quăng hết chưa và cho thêm tin mới.
Ai muốn đi (đi đâu, không một ai biết lúc
đó đi đến đâu) thì lên tàu lớn, còn như ai
muốn về, họ sẽ cung cấp cho xăng dầu,
đồ ăn cùng thức uống và những
người quyết định đi về
được tự chọn những chiếc tàu ở
đây còn tốt mà lái về. Những chiếc khác còn
lại sẽ bị đánh chìm. Mọi người trên tàu
đều đồng lòng ra đi ngoại trừ lão tài
công. Không phải Nhảy Dù đã cưỡng bức lão ta
ra ngoài này hay sao? Được đi về còn
được lựa tàu 'mới' nữa, lão mừng
nhảy tưng tưng. Chúng tôi gom hết tiền bạc
Việt Nam Cộng Hoà cho lão, không biết những số
tiền nho nhỏ đó có giúp ích gì chăng? Lão cám ơn
rối rít.
Lên trên tàu lớn, trời cũng vừa sáng. Bình minh trên
biển thiệt đẹp. Mặt trời hồng
chậm rãi vươn lên từ chân trời xa. Tôi như
quên bao nhọc nhằn những ngày qua, đi một vòng
quan sát, tôi quay dặn thằng đệ tử đừng
đi đâu kẻo lạc và tôi rảo bước nhìn
quanh. Tàu buôn của Mỹ lớn thật... nhưng mà...
ơ kìa... những gian hầm tàu thay vì chứa hàng, tôi
thấy toàn người với người. Hầm nào
cũng đầy nhóc người, kẻ đứng
người ngồi. Tiếng nói, tiếng cười pha
lẫn tiếng la khóc con nít, âm thanh ồn ào vang vọng
echo lên boong tàu. Những người lính Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ nhìn tôi thân thiện. Mới hôm qua nhìn nhau còn
e ngại. Tàu chạy rồi tôi vẫn chưa hay, tàu
lớn chạy êm quá.
Nhìn xuống dưới biển thấy nó đang nhẹ
nhàng rẽ nước. Tôi ngồi bệt xuống boong tàu
suy nghĩ. Thì ra những ngày qua tôi không biết gì hết!
Người Mỹ đã sắp đặt hết tất
cả. Từ tin đồn mất nước, tin
đồn trại tị nạn bên Guam, bây giờ với
những tàu hàng này tôi đã hiểu ra phần nào.
Người Mỹ đặt 'order ' những tàu hàng
trống trơn ít nhứt phải hơn một tháng
về trước. Họ chuẩn bị cho tàu hàng ở
ngoài khơi như tôi đang thấy ít ra cũng cả
tuần lễ, có như vậy họ mới 'lai rai'
nhận người di tản từ trước 30 tháng 4.
Người nào đến trước xuống hầm tàu
(tàu trống mà) và người nào lên sau cùng sẽ ở trên
boong như chúng tôi. Chúng tôi là những người tị
nạn chót lên tàu và nhổ neo đi tức thì. Tôi vịn
thành tàu đứng dậy nhìn về Việt Nam, giơ tay
chào vĩnh biệt trước con mắt ngỡ ngàng
của những người lính Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ.
(Nguồn: Trần Ngọc Toàn chuyển tiếp anhdaodalat@yahoogroups.com)