Sự ra đời của chữ Quốc ngữ
Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh
|
|
Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630).
Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.
*** Hệ thống
chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này
được chúng ta ngày nay gọi là “chữ
quốc ngữ” (chữ
viết của quốc gia)***
Nguyễn Văn Vĩnh sinh
năm 1882 tại Hà Nội – cái năm thành Hà Nội
thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière
chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt
cổ tự vẫn.
Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học.
Lên tám tuổi, cậu
Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống.
Công việc của cậu
lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát
cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp
mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng.
Cậu ghi nhớ mọi
thứ rất nhanh và còn trả lời được các
câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong
lớp còn đương lúng túng.
Thầy giáo người
Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng
giúp tiền cho cậu vào học chính thức. Năm 14
tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa
học, và trở thành một thông dịch viên xuất
sắc. Sau đó ông được bổ làm trợ lý
cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí.
Ông còn là người
Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân
quyền Pháp.
Trở về Việt Nam,
Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan
chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội,
và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo -
tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ
ở Bắc Kỳ. Năm 1913 ông xuất bản
tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân
Việt viết văn bằng quốc ngữ.
Ông là người
đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác
phẩm của các đại văn hào Pháp như Balzac,
Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là
người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” sang
tiếng Pháp. Bản dịch “Kiều” của
ông Vĩnh rất đặc sắc vì ông không chỉ
dịch cả câu, mà còn dịch nghĩa từng chữ và
kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó -
một điều chỉ có những ai am hiểu sâu
sắc văn chương Việt Nam (bằng
chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có
thể làm được.
Sự cố gắng và
sức làm việc phi thường của ông Vĩnh, đã
góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá
kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân
Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi
đến chỗ dần dần chấp
nhận chữ quốc ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ.
Năm 1918 vua Khải
Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở
Trung Kỳ, và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các
trường dạy chữ Nho, thay thế bằng
hệ thống trường Pháp - Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn
quyền Đông Dương Merlin ký quyết định
đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm
đầu cấp tiểu học.
Như vậy là, sau gần
ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển
Việt - La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời,
người Việt Nam mới thật sự đoạn
tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính
thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.
Đây quả thực là
một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông
Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai
trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc
Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Vĩnh,
tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề
báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng
phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối
với thuộc địa, là người Việt Nam
đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ
chối huân chương Bắc đẩu bội
tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là
người đã cùng với bốn người Pháp
viết đơn gửi chính quyền Đông Dương
phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vì thế chính
quyền thuộc địa của Pháp ở Đông
Dương chẳng ưa gì ông.
Tòa báo của ông vỡ
nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông
bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó
năm 1936 vì sốt rét.
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole. Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép:
Ông đang viết dở
thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với
những người tìm vàng”.
Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông; con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình, đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.
------ Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc, đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
------ Lời cảm ơn:
Tác
giả bài viết này biết ơn thân sinh của
mình - nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người
đầu tiên kể cho tác
giả về cuộc đời và sự
nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ
khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi
sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là “gián
điệp”, còn Nguyễn Văn Vĩnh là “bồi bút” của
Pháp.
*** Tác giả xin chân thành
cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn
Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ
Nguyễn Văn Vĩnh, vì những câu chuyện xúc
động về cuộc sống và sự
nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng
như của gia tộc cụ.
*** Tác giả xin cảm
ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn
Vĩnh, đồng thời từng là thày dạy toán
của tác giả, khi tác giả là học sinh trung
học.
(Nguồn: Nghiệp Nguyễn chuyển tiếp thunhan1-2@yahoogroups.com)