Vong bướm và Sự tích chúa Chổm :
Hai tác phẩm mới nhất của Nguyễn Huy Thiệp (RFI)
Bìa một tuyển tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp, xuất bản tại Việt Nam. DR
Thụy Khuê
Sự im lặng của Nguyễn Huy Thiệp trong tám năm qua là sự nhập thiền để ngộ mình trong một tình huống khác. Tình huống đó là chèo. Tại sao lại chèo? Bởi chèo tự thân đã mang khả năng cách mạng thường trực nghĩa là tác giả và diễn viên đều có quyền phản ứng lại hay quyền phản biện đối diện với hoàn cảnh hiện sinh và trực diện với khán giả trước mắt mình: Chèo là nghệ thuật có tính cách mạng cao.
Chừng tám năm nay, từ sau khi tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu bị cấm in trong nước[1], cùng với dư luận "tẩy chay, ruồng bỏ" của một số người "có thẩm quyền" xác định tác phẩm này là một "thất bại hoàn toàn", Nguyễn Huy Thiệp bèn viết vài cuốn tiểu thuyết ba xu để tặng bọn -chẳng ai hiểu cóc khô gì như lời thằng Khuê trong Tuổi hai mươi yêu dấu- mà theo ông, chỉ đáng đọc tiểu thuyết ba xu.
Sau lẫy hờn đó là im lặng.
Điều kiện sức khoẻ và hoàn cảnh gia
đình góp phần trách nhiệm vào sự im lặng này,
nhưng lý do chính vẫn là sự chán nản toàn bộ danh
vọng, chữ nghĩa và tình đời: Khi đã
đạt tới "đỉnh cao", nhà văn
phải trực diện với vực sâu trước
mắt, bởi đỉnh nào không nằm bên vực?
Vậy, sự im lặng của Nguyễn Huy
Thiệp trong tám năm qua là tất yếu và cũng là
sự nhập thiền để ngộ mình trong một
tình huống khác.
Tình huống đó là chèo.
Tại sao lại chèo?
Bởi chèo là hình thức văn nghệ cổ dân gian,
tự do nhất vàmang nhiều nghi nghiã nhất
trong kịch bản, cách nói, hát và diễn tả:
- Về cốt truyện, tác giả chèo thường
dựa trên những truyền thuyết cổ, rồi tự
do vẽ rết thêm chân đểtạo nên nhân vật
của mình: Một danh nhân được coi là anh hùng
vĩ đại kiệt xuất qua tay nhà trò, có thể
trở thành một bù nhìn hình nộm nhất; một triều
đại mở nước, liệt oanh, qua tay chèo, có
thể trở thành một triều đại ma só, ma
bùn...
- Về lời nói, cách hát, diễn viên cũng có thể tự
do sáng tác ra những câu những lời (không có trong
kịch bản) để đáp ứng với hoàn
cảnh sống hiện tại và phản ứng khán
giả. Sự tự do này có tự thời xưa, bởi kịch
bản[2]
chèo chỉ truyền khẩu chứ không được
lưu giữ bằng văn tự.
Vậy chèo tự thân đã mang khả năng cách
mạng thường trực nghiã là tác giả và diễn
viên đều có quyền phản ứng lại,
nói cách khác là quyền phản biện đối
diện với hoàn cảnh hiện sinh và trực diện
với khán giả trước mắt mình: Chèo là nghệ
thuật có tính cách mạng cao.
Nguyễn Huy Thiệp cho biết những vai chính diện có
tác dụng giáo hoá, lại thường do những
diễn viên nghiệp dư, tức là "bọn tử
tế" đảm trách, và "đất
diễn" của họ không nhiều. Ngược
lại, đám nghệ nhân chuyên nghiệp, tức những
quan viên phường chèo, tức là "bọn
xướng ca vô loài" thường giữ
địa vị "quấy đảo để làm
tăng vị chèo".
Tác giả muốn nói bọn dạy đời, bọn giáo
dục quần chúng (tức bọn chính thống, bọn
quyền thế) xuất hiện rất ít, chỉ giữ
vai phụ, do những người tập tành học
việc diễn.
Trong khi bọn bị khinh rẻ, chỉ được
đóng vai phụ, lại là bọn nghệ sĩ đích
thực "xướng ca vô loài", có tay nghề, có có
khả năng khuynh đảo xã hội, có thể
"nổi loạn" bằng cách sáng tác những lời
văn, thơ không có trong nguyên bản, để tạo
không khí và gây hậu quả, làm cách mạng
thường trực.
Nhờ tính nghi nghiã và đa nghiã, chèolà một
nghệ thuật mở, dù diễn tích xưa, nhưng luôn
luôn tái tạo để phù hợp với đời
sống hiện sinh, hiện hành, trong bất cứ môi
trường nào, xã hội nào, thời đại nào.
*
Chèo Vong bướm, kể chuyện Điệp Lang,
một chàng trai quê ra tỉnh tìm công danh, trót ký với Ma
vương "giao kèo" bí mật: bán linh hồn mình để
thoả mãn tất cả dục vọng trên đời... Sùng ông, cha chàng, đi tìm con, chỉ gặp
được vong con.
Vong bướm
kết hợp huyền thoại Trang
Tử hoá bướm và bác sĩ Faust bán mình cho Quỷ, cùng
tinh thần Văn tế thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du, để tạo ra một mô hình mới trong
chèo: Vong.
Văn tế thập loại chúng sinh
của
Nguyễn Du mở đầu bằng những dòng trác
tuyệt:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu
Ngàn lau khảm bạc, giếng khô rụng vàng
Từ thềm nhân ái, Nguyễn Du tạo một hoàn vũ
cô hồn đến Quỷ cũng đáng thương:
"Quỷ không đầu van khóc đêm mưa". Tố Như là hồn của chữ nhân sau
khi thoát xác.
Hồn Nguyễn Du, ba trăm năm sau, vẫn còn vấn
vương trần thế, ám vào đám vong người.
Từ ảnh hưởng Nguyễn Du, Nguyễn Huy
Thiệp tạo thế giới vong thế kỷ XX,
mà quỷ và người cùng sống chung
trong ý thức.
Goethe giải thích cuộc quyết đấu cơ
bản: "Có hai linh hồn sống trong ngực tôi. Cái
nọ muốn muốn lìa cái kia. Một,
với những bộ phận lành mạnh, bấu víu vào
cuộc đời, trong niềm vui xác thịt; một
hăng hái đứng lên và thoát ra từ cát bụi trong lòng
đất để về với những cánh
đồng của tổ tiên". Đó là cuộc tranh
đấu tay đôi thường
trực trong nội tâm con người, giữa sống và
chết, tốt và xấu. Faust và Méphistophélès là hai mặt
của một mề đai.
Ma vương
là hiện thân của
Méphistophélès trong thế giới phương đông.
Nguyễn Huy Thiệp, từ thời Quỷ ở
với người, đã chịu ảnh hưởng
Goethe, qua kỹ thuật dàn dựng và cuộc chiến
nội tâm.
Điệp Lang trong Vong bướm, là
hiện thân của những người mải mê đi tìm
danh vọng, bán linh hồn cho quỷ.
Mà vong lại là hồn và hồn
bướm là hình tượng được Khái
Hưng và Nguyễn Bính tái tạo trong Hồn bướm
mơ tiên và Cô hàng xóm. Vậy Vong
bướm của Nguyễn Huy Thiệp là tái tạo
thứ ba, sau Khái Hưng và Nguyễn Bính:
"Vong là ngọn gió đa tình bay qua,
Vong ngoài sân, vong trong nhà,
Vong từ cung cấm, vong ra sân đình.
Vong này đích thực vong tình,
Xem ra vong Bướm ở mình, ở ta".
Sau thời kỳ "tham thiền" gần mười
năm, Nguyễn Huy Thiệp nhìn lại đời mình,
đời người, luận lại mọi lẽ, và
ông đã tìm ra một triết lý mới của đạo
Phật: Tất cả đều là vong (Xem ra vong
Bướm ở mình, ở ta) hoặc sẽ trở
thành vong. Bởi vong ở mình.
Bởi tất cả rồi sẽ chết.
Bởi ta mang cái chết trong mình.
Nhưng vong còn là sự suy vong, tận
diệt, tự huỷ. Vong có trong
ta, trong cuộc sống, là sự tranh đấu giữa
hai thế lực tốt xấu trong ta.
Điệp Lang (Chàng Bướm) mang hình ảnh những
kẻ đam mê danh vọng cung đình, bán mình cho Quỷ:
Lại những vong công hầu khanh tướng,
Nơi thâm nghiêm thì thụt vào ra.
Lăm le gánh vác sơn hà,
Bạn bè toàn những mãng xà diều hâu
Trường danh lợi biết đâu là đủ,
Danh càng cao thù oán càng cao,
Thác đi vênh váo được nào,
Văn thơ để lại vận vào tiếng
nhơ!
Cũng nhiều vong bơ phờ hốc hác,
Tưởng như mình thiên chức tài cao.
Trường văn trận bút áo ào,
Viết hàng đống sách vứt vào lãng quên.
Điệp Lang là chàng trai quê lên tỉnh, giống như cô
gái quê của Nguyễn Bính sau khi đi tỉnh về: Hôm
qua em đi tỉnh về, hương đồng gió
nội bay đi ít nhiều. Điệp Lang dấn
cả cuộc đời trong gió bụi kinh thành, chàng thì
thụt vào ra những nơi thâm nghiêm kín cổng, bạn
bè toàn những mãng xà diều hâu. Đối diện
với Điệp Lang là Ma vương:
"Ta là cô hồn, ta là tận thế,
Ta là bài ca tuyệt vọng cõi nhân sinh!
Ta là cơn lốc bất thình lình,
Ta ập đến trong sát-na, trong thời khắc!
Ta ký những giao kèo bí mật,
Ta ký trong thoả thuận tâm linh.
Ta ký giao kèo với các sinh linh..."
Khi mê, Điệp Lang không phân biệt được,
đâu là ánh sáng, đâu bóng tối, nhưng khi tỉnh
lại, chàng đã thành vong, mới có cơ hội bay lên
nhìn lại toàn cảnh đời mình, từ không gian vũ
trụ:
Danh càng cao thù oán càng cao,
Thác đi vênh váo được nào,
Văn thơ để lại vận vào tiếng
nhơ!
Để xây dựng nhân vật của mình, Nguyễn Huy
Thiệp trích dẫn khá nhiều thơ Nguyễn Bính,
nhưng ông tạo ra những cá tính, những tinh thần,
những tình huống huyền hoặc của xã hội ngày
nay, khác hẳn tinh thần lãng mạng xưa, trong cuộc
tranh đấu một mất một còn giữa đô
thị và thôn quê, giữa quyền lực và dân đen,
giữa thối nát và trong sạch, trong bối cảnh
nửa hiện đại, nửa cổ phong.
*
Truyền thuyết tìm Vua
(hay là Sự tích chúa
Chổm) thoạt nhìn là huyền thoại Chúa Chổm
thế kỷ XVI, nhưng khảo sát kỹ hơn, vở
chèo bao trùm nhiều thời điểm khác, nhiều giai
đoạn lịch sử khác. Phần giáo trò, mở
bằng những câu:
"Chuyện xảy ra thế kỷ mười sáu,
Nhà Lê suy vong, nhà Mạc truất ngôi
Mặc Đăng Dung khởi chuyện động
trời
Giết Cung Hoàng, tiếm ngôi Hoàng đế
Công thần nhà Lê thảy đều phẫn chí
Theo Nguyễn Kim dựng ngọn cờ đào
Một phen nước lửa binh đao,
Một phen vận hội anh hào ra tay
Nam-Bắc triều cuộc chiến này,
Nồi da nấu thịt xương thây trắng
đồng!
- Có câu rằng:
Nam
Bắc Tây
Đông,
Rối tinh canh hẹ, Nam Bắc Tây Đông!...
(Chương
1)
Phần
giáo trò (giáo đầu hay mở đầu)
tóm tắt bối cảnh vở chèo: Chuyện xẩy ra khi
Mặc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Nguyễn Kim,
công thần nhà Lê lập bản doanh tại châu Sầm
Nứa (Ai Lao) cùng con rể là Trịnh Kiểm đi tìm con
út vua Lê Chiêu Tông, tên Duy Ninh, tức chúa Chổm, tôn làm vua,
năm 1533, tức Lê Trang Tông. Đó là huyền thoại dân
gian, chính sử không nói gì đến chúa Chổm[3]. Nhà Lê trung hưng lên từ
đấy, nhưng đồng thời đất
nước bắt đầu "rối tinh canh hẹ"
trong những cuộc nội chiến tương tàn.
Vào chèo, đại thần Nguyễn Kim
dấy cờ khởi nghiã, có Hề và ba quân (tiếng
đế) phò tá. Nguyễn Kim là chủ soái nhưng
Hề "giật dây", Hề mới là kẻ có
thực quyền.
Nguyễn Kim và con rể Trịnh Kiểm, "tổ
phụ" của hai "triều" Nam Bắc, đi
tìm dòng dõi vua Lê để phò, tức là tìm Đạo,
hay tìm Ngài Được Chọn (Kinh thánh gọi là Élu,
tức là vị Chúa con được Chúa Trời
tiền giao sứ mệnh thiêng liêng). Chữ Đạo
này, ứng vào lịch sử Nam Bắc triều là Chính
nghiã. Người ta đánh nhau vì chính nghiã, mà chính
nghiã đối với hai bên tham chiến, thu
gọn lại là chính quyền. Tất cả những
sự "rối tinh canh hẹ" trong cuộc nội
chiến trải dài ba thế kỷ (từ đầu
thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX)
giữa các họ Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn,
núp dưới chính nghĩa phò Lê, để dành
quyền chấp chính, tức là cướp chính quyền.
Còn vấn đề Ngài Được Chọn,
ứng vào thế kỷ XVI, là tìm Chúa Chổm, người
nối dõi tông đường của nhà Lê, đưa lên
làm vua bù nhìn và biểu hiệu chính nghiã.
Có vua, họ Trịnh xưng chúa phía Bắc để
hiếp vua; họ Nguyễn xưng chúa phía Nam, lấy
cớ phò vua đánh Trịnh. Trịnh Nguyễn tranh
chấp bá quyền trong 148 năm vì "chính nghiã" vua Lê;
sau đó Tây Sơn tiếp nối đánh Nguyễn trong 24
năm nữa.
Ứng vào lịch sử cận đại,
thời tiền khởi nghiã, thì Ngài Được
Chọn là vị Chúa Nhất, được tôn vinh
"cha già của dân tộc". Sau khi Chúa
Nhất băng hà, người ta đi tìm con rơi của
Người, để dựng chúa Chổm hiện
đại. Các chúa con này được các thiền
sư hồng giáo dục theo đúng
nguyên tắc huấn Chổm: "Tửu, sắc, yên,
đổ"[4].
Và nhà nước hồng triền miên
dưới sự trị vì của các chúa Chổm thời
danh từ giai đoạn tiền khởi nghiã đến
ngày nay.
Vở chèo mở cửa cho chúng ta vào lịch
sử thành lập triều đại hồng này.
Trống thúc, chạy cờ, Nguyễn Kim ra (có Hề theo sau) vạch đường chính nghiã:
"Hãy mau mau theo ta tìm vua tìm Đạo! Hãy theo
ta tìm ra nòi giống vua Lê dựng nghiệp". Rồi
truyền lệnh: "Hãy mời các tướng lĩnh
ra đây bàn việc!".
4 tướng: 2 văn, 2 võ ra, chắp tay:"
Trình lạy tướng công, Vô Dụng, Vô Đức, Vô
Sản, Vô Nhân, có mặt!" (...)
Hề hỏi:
"Thế các ông theo tướng công ta
bởi lẽ gì nào?
Vô Dụng: Vui thì theo thôi!
Vô Đức: Thấy người ta đi thì ta cũng
đi!
Vô Sản: Đi thì may ra có cái ăn, còn ở nhà thì
lấy gì mà ăn?
Vô Nhân: Cứ chỗ nào đông người thì
đến đục nước béo cò!
Hề:" Thế thì xéo! Xéo ngay! Thời
thế ngày nay đã khác xưa rồi, muốn vào doanh
tướng công ta nay phải có vàng mười đặt
cọc!" (Xua đuổi, đánh, các tướng
ôm đầu chạy).
Nguyễn Kim: (ngăn lại) Cũng phải giữ
lại một người để bàn việc chứ?
Hề: Thôi thì ta giữ lão già này lại! (giữ
Vô Dụng lại, 3 tướng chạy đi).
Vô Dụng: (Chắp tay) Trình lạy
tướng công! Vô Dụng trình lạy
tướng công.
Hề: Lão là Vô Dụng hay Ngô Dụng?
Vô Dụng: Lão là Vô Dụng, chứ nếu là Ngô Dụng
như trong truyện Thủy Hử thì chết lâu rồi!
Hề: Sao Vô Dụng còn mà hữu dụng chết?
Vô Dụng: (bảo Hề) Cậu ơi, thế cậu
có nhìn thấy cái cây to lớn bên đường kia không?
Hề: Có! Có phải cái cây cao bóng cả, cái cây lắm
cành nhiều cội, cái cây lắm họ hàng hang hốc
đấy không?
Vô Dụng: Đúng rồi, cái cây vô dụng!
(vỉa) Gỗ của nó đóng quan
tài thì quan tài mục,
Mang đóng thuyền thì thuyền chìm nghỉm mất toi!
Làm củi đun thì khói um giời!
Chim không làm tổ mà hoa quả thì cây này không có!
(nói) Chính vì vô dụng mà cái cây ấy
sống trăm tuổi thành cổ thụ đấy
cậu ạ! Chứ hữu dụng thì người ta
chặt nó lâu rồi!
Nguyễn Kim: Hay! Nay ngươi nói ra ta mới hiểu
cái nghiã của sự vô dụng ở đời!
(hát cách) Này vô dụng! Hỡi vô
dụng!
Nào ai hay vô dụng đắc thời!
Giở hay cũng bởi chữ thời,
Thị phi hai mặt ai người chớ quên!
Nhân tài do bởi chữ Duyên!"
Trích đoạn trên đây mở màn vào không gian và
"triết lý" chính của vở kịch: vô
dụng thì sống, hữu dụng tất chết. Chỉ
với mấy dòng đối thoại, Nguyễn Huy
Thiệp đưa ra tám chủ đề:
1- Tìm Vua tức là tìm Đạo.
2- Ý nghiã họ tên của bốn tướng: Vô
Dụng, Vô Đức, Vô Sản, Vô Nhân.
3- Động lực dựng cờ "Hưng
quốc" của bốn tướng họ Vô.
4- Cửa quyền: muốn vào dinh thì phải đút cửa
Hề vàng mười.
5- Các họ Vô khác đều bị sa thải, chỉ
giữ lại Vô Dụng.
6- Nguyễn Kim là chủ soái nhưng Hề nắm thực
quyền.
7- Nguyên tắc cai trị: vô dụng
thì còn, hữu dụng bị diệt.
8- Nguyễn Kim "ngộ" ra "nguyên tắc" tìm
vua tức là tìm "Người Được
Chọn" (dùng chữ Élu trong Kinh thánh) nói khác đi
là tìm "kẻ vô dụng" để dựng "vua
bù nhìn".
Tám chủ đề này bao trùm lên nhiều thời
điểm lịch sử : thời Tiền
khởi nghiã (tìm Chúa), thời Nam Bắc triều (Vô
Sản lãnh đạo thành công: dãi thây trăm họ nên
công một người), thời Thống nhất (Vô
Dụng tồn tại, các họ Vô khác bị tiêu diệt
như trong Thủy Hử, có danh ắt hại ba
đời) và thời Hiện đại (vào dinh
phải có vàng mười).
Chủ đề một: nhà nước chuyên chế nào
cũng đồng hoá chính quyền (vua, đảng)
với Đạo.
Chủ đề hai: Chỉ vì cái tên mà bốn tướng
cột trụ Dụng, Đức, Sản, Nhân, bị Vô
(hiệu) hoá dưới triều đại hồng.
Chủ đề ba: Lý do theo "kháng chiến": Vô
Dụng:Vui thì theo thôi! Vô Đức:
Thấy người ta đi thì ta cũng đi! Vô Sản:
Đi thì may ra có cái ăn, còn ở nhà thì lấy gì mà ăn?
Vô Nhân: Cứ chỗ nào đông người thì đến
đục nước béo cò!
Lời Dụng và Đức chả khác gì lời Phạm
Duy, Tạ Tỵ, Hoàng Cầm... thốt
lên về việc theo kháng chiến, nghiã là họ chẳng
biết mô tê mù tịt gì về chủ nghiã nọ kia,
thấy vui thì đi; bọn theo Nguyễn Kim ngày
trước cũng thế.
Chủ đề bốn: Sự đút lót có từ thời
dựng cờ Hưng quốc.
Chủ đề năm: "Hưng quốc" (cách
mạng thành công) rồi, áp dụng quy luật "tiền
nhân": các tướng có công bị loại, chỉ
giữ lại Vô dụng.
Chủ đề sáu: Chủ soái chưa chắc đã có
thực quyền, thực quyền nằm trong tay bọn hề.
Chủ đề bẩy: Nguyên tắc thống trị
của triều đại hồng: tiêu diệt những gì
hữu dụng, chỉ để lại bọn vô
dụng.
Chủ đề tám: Vị nguyên thủ "ngộ" ra
chân lý: phải bù nhìn hoá các giá trị (ví dụ tự do, dân
chủ), tức là viết thành chữ trong hiến pháp
nhưng không thi hành.
Nguyễn Huy Thiệp vẫn kiệm lời, kiệm nhân
vật, kiệm cử chỉ và kiệm cả hành
động, nhưng mỗi nhân vật, mỗi cử
chỉ, mỗi hành động đều ẩn nhiều ý
nghiã, nhiều chủ tâm khác nhau, ví dụ, bốn
tướng quan trọng nhất đều họ Vô, tên: Dụng,
Đức, Sản, Nhân. Ba chữ Dụng,
Đức, Nhân, biểu dương những đức
tính tốt của con người, thường
được cha mẹ Việt chọn làm tên cho con
với kỳ vọng người con sẽ thực
hiện được những gì mà cha mẹ hoài bão,
nhưng ở đây, lại bị chữ Vô triệt
hết, biến chúng trở thành: Vô Dụng, Vô
Đức, Vô Nhân.
Yếu tố "ngoại lai" duy nhất
lọt vào trong đám tướng này là Sản (tài
sản, tiền bạc), nhập cảng từ bên ngoài,
không có ý nghiã gì trong đạo đức truyền
thống của người Việt, khiến cha mẹ
dùng để đặt tên cho con. Chính cái Sản
này, là thứ vi trùng ngoại lai, sẽ
giữ vai trò chủ chốt trong việc tiêu diệt các
đức tính: Nhân, Đức, của con
người mà cha mẹ Việt ước muốn cho con. Sản
(tiền tài, của cải) sẽ tiêu diệt Nhân,
Đức, hoặc chuyển hoá Nhân và Đức sang cùng
họ Vô với mình, để trở thành: Vô Nhân, Vô
Đức, Vô Sản. Sự chuyển biến này trong
thời kỳ tiền khởi nghiã (tìm Chúa) có ý nghiã sau xa:
Vô Sản tiêu diệt Nhân Đức, để nắm toàn
quyền lãnh đạo, tạo nên cuộc Cách mạng Vô
sản.
Trong bọn tướng theo Nguyễn Kim
có bốn cột trụ: Vô Dụng, Vô Nhân, Vô Đức, Vô
sản.
Vô Dụng được Hề giữ
lại. Nhưng việc Hề so sánh Vô Dụng
với Ngô Dụng có ý nghiã thâm thúy: Ngô Dụng, quân sư
trong Thủy Hử (được ví như Gia Cát Lượng),
phải tự vận chết, bởi khi hết loạn,
nhà Tống tiêu diệt gần như toàn bộ nhóm anh hùng
Lương Sơn Bạc về giúp triều đình. Ngoài ra, họ Ngô, trong thời điểm Nam
Bắc phân tranh, còn gợi nhớ đến một họ
cầm quyền ở phương Nam. Nghĩa gì
chăng nữa thì họ Ngô tên Dụng ở đây,
vẫn là một thứ "hữu dụng" và như
cái cây, nếu nó hữu dụng thì bị người ta
chặt ngay! Chỉ bọn vô dụng là đắc
thời, đắc thế!
Cuối cùng, Hề núp sau, giật dây quyền
lực. Hề ra lệnh "giết
phăng lịch sử". Nhà nước hồng
đã răm rắp thi hành bản án
tử hình lịch sử này.
Chổm
hiện ra trong màn 2. Mẹ Chổm ngày
trước "bán rượu" ở kinh thành, một
đêm, phận hèn may (hay rủi) gặp vua, xong
"việc", vua trao cho nàng ấn tín xác nhận hành vi.
Chẳng ngờ chuyện một đêm thành chuyện một
đời: "Ai hay sinh hạ được nên
giọt Rồng!".
Nàng bèn: "Gửi con lên chốn núi Hồng", cho
các vị thiền sư Hồng dạy Đạo. Chổm là đệ tử của sư Thạch
Toàn. Chổm học gì? Chàng học
được những trò "sớm đào tối
mận", bởi "sư dạy toàn những thú
ăn chơi đế vương thôi!".
Sau 10 năm "tu luyện", Chổm quyết
định "hạ sơn" đúng lúc đại
thần Nguyễn Kim đang truyền lệnh tìm
Đạo, tìm Người Được Chọn.
Chổm lên ngôi vua. Mẹ Chổm mừng rỡ: "Ơn
giời Long lại hoàn Long! Trứng Rồng lại nở
ra Rồng. Liu điu lại nở ra dòng liu điu!". Rồi thoắt nhiên nàng hoá dại:
"Chổm ơi là Chổm" "Mẹ hại
con rồi!", mẹ Chổm
ca:"Rồ rồ dại dại điên điên, vào
trong cung cấm không điên mới tài".
Sự hoá dại của mẹ Chổm khi biết con mình
sẽ thành vua, là điều bi đát nhất trong lịch
sử, lịch sử hồng và lịch sử nhân
quyền của một nước.
Paris Tết
Nhâm Thìn, 2012
[1] Viết xong năm 2004. Bản dịch Pháp văn A nos vingt ans của Sean James Rose, do nhà Aube in ở Pháp 2005.
[2] Nguyễn Huy Thiệp sưu
tầm và cho biết kịch bản tức thân trò
hay tích trò chỉ truyền khẩu.
[3]
Theo Long điền
Nguyễn Văn Minh, trong bài nghiên cứu "Chúa Chổm
là ai? Cấm Chỉ là gì?" thì huyền thoại Chúa Chổm và
phố Cấm Chỉ ở Hà Nội không liên lạc gì
với nhau. Về Chúa Chổm, ông viết: "Xét
nhà Lê trung hưng từ năm Quý Tỵ (1533) đóng hành
điện ở châu Sầm Gia (Ai Lao), sau Trịnh Kiểm
thiên ra Vạn lại (Thanh hoá), mãi đến năm quý tỵ
(1593) mới về được Thăng long, tức là
cách 60 năm tròn. Trong 60 năm, trải bốn đời
vua: Trang tông, Trung tông, Anh tông và Thế tông. Tháng 4 năm
ấy, xa giá vua Thế tông mới tới Thăng Long:
như vậy mà bảo Lê Trang tông là Chúa Chổm, thực
không đúng. Vua Trang tông mất ở Vạn lại từ
năm 1548, mà đến năm 1593 triều đình mới
về được Thăng Long, cách nhau 45 năm
trường". Về phố Cấm Chỉ, ông
viết: "Lại xét địa đồ xưa, thành
Thăng Long, ba phía đông, tây, bắc, mỗi phía có một
cửa, duy phía nam có hai cửa: một cửa ở ngay
vườn hoa Bách Việt bây giờ có con đường
đi thẳng lên Cột cờ; một cửa nữa có
lẽ vào phố hàng Đẫy (đại lộ
Nguyễn Thái Học bây giờ) khoảng nhà thương
Saint Paul. (Theo bản đồ phác hoạ (schéma)
Hà Nội năm 1876, trong quyển "Hanoi pendant la période
héroique (1873-1888) của André Masson, in 1929, do nhà Librairie
orientaliste Paul Geuthne). Vậy có lẽ xưa lúc
thiết đại triều ở Kính thiên, tất phải
cấm dân chúng đi lại gần cửa Nam để
tiện giữ trật tự, vì thế mà có lệnh cấm
từ con đường ngang cách Cửa Nam một quãng, do
đó thành tên là con đường ngang Cấm Chỉ.
Như thế, Cấm Chỉ có từ xưa, đời
nhà Lý, chứ không phải có từ đời Lê trung
hưng.". Còn về cái tên Chúa Chổm, ông lập
luận: "Chúa Chổm, dẫu là thực danh hay
xước danh của một nhân vật nào, tất
cũng phải từ sau năm quý tỵ (1593) tức là sau
thời kỳ Trịnh Tùng xưng chúa". (Tập san Nhân Loại số 16 và 17, ra ngày 9 và
30/11/1953, Sài Gòn).
[4] Rượu chè, trai gái, ma tuý, cờ bạc.
(Nguồn:viet.rfi.fr)