GÀ ỐNG TRE
Nguyễn Quang Tuyến
Chuyện Lão Khoát thu
nhỏ chữ Ống to
đùng xuống dần dần, rồi chữ Ống còn nhỏ tí để
người ta chỉ còn thấy chữ Gà Tre,
được coi như là chuyện thời sự ở
cái làng nhỏ bên sông Trường Giang quê tôi. Con sông
Trường mảnh khảnh bao mùa thiêm thiếp giữa
hai bờ cát trắng và bóng thùy dương, chỉ
chợt thức dậy kêu gào đáp ứng lời của
biển trong mùa bão tố Cái con sông Trường tội
nghiệp kia, mỏng manh là vậy mà cứ phải bao
năm chứng kiến, chờ đợi, nghe ngóng
biết bao nhiêu chuyện râm ran của cái quán nhậu Gà Tre
bên bờ: Chuyện Lão Khoát .
Lão tên thật là gì
chẳng ai trong lứa tuổi chúng tôi biết; chỉ
biết mang máng đã có một thời lão rời khỏi
làng và nay trở về. Lão từng làm việc đâu đó
nơi một nông trường Tây Bắc, và có một sổ
hưu đủ sống lay lất. Vốn là người
từng trải đây đó cộng thêm tính chất trai
xứ Quảng, nên miệng lão huyên thiên, đã nói là không
muốn ngừng, ngừng chỉ là nhịp nghỉ
để tìm cơ hội nói tiếp. Lão tranh luận
mọi thứ, hiểu biết mọi thứ và tất
cả đều dựa vào cái đài lão đặt trên cái
hòm gổ đầu giường , đài cung cấp cho lão
từ chuyện ngủ nên nằm nghiêng bên phải cho
đến chuyện cái vũ trụ này đã tạo
dựng nên từ mấy triệu năm và có một cái
lổ đen ghê gớm nó sẽ nuốt chững căn nhà
của lão lẫn bà Ba hàng xóm! Lão biết hết và lão
sẳn sàng sùi bọt mép để tranh luận cho cái
biết làng nhàng của lão.
Lão Khoát mê lý luận
đủ mọi thứ trên đời và lão phà cái lửa
trung tâm chân lý đó cho bọn trẻ chúng tôi. Đàn ông xứ
Quảng ngồi bên nhau là cải lấy được
về mọi thứ, nhưng nơi nào có mặt lão Khoát
thì tranh cải bao giờ cũng có đề tài,
đủ các loại đề tài, mà phần thắng luôn
thuộc về lão với nhiều lý do khác nhau . Chân lý dù
trừu tượng đến mấy lão cũng vê lại, giải thích, cho nhiều ví dụ cụ thể và
cuối cùng thì bao giờ lão cũng phán:
- Đó, coi kìa, nó rành rành, thấy không ?
Có lẻ chẳng ai
thấy, nhưng đành nhường cho lão cái lẻ
phải mà lão độc quyền ôm giữ. Việc gì
rồi lão cũng lật qua lật lại vấn đề
ở nhiều góc cạnh, và cũng tìm cho ra cách giải
thích. Lão có cách giải thích kiểu của lão, và giải
thích xong lão xem như đã giải quyết xong mọi
việc. Để chứng minh chân lý của mình, nhiều khi
lão thêm vào các con số, hoặc phần trăm, hoặc so
sánh; theo lão dường như có thêm bao nhiêu số lẻ
là sẽ gần chân lý bấy nhiêu “ Cả xã mình nuôi
hơn hai ngàn ba trăm con heo, so với trước là: … “
. Chẳng ai kiểm chứng điều đó
được nhưng cứ nghe các con số nối nhau
là có cảm giác đó là sự thật! Biết tụi con cô Bảy
ở xóm trên bỏ học vì nhà quá túng quẩn, cô Bảy
chạy gạo từng bửa bương chải nuôi ba
con, lão Khoát nhíu mày:
- Cái việc bỏ
học là không được! Giáo dục là việc quan
trọng! Rồi tương lai tụi nhỏ ra sao?
Phải có tri thức, nhất định là phải có tri thức
mới mong đóng góp công sức cho xã hội! Còn khó khăn
thì là cái chung của xã hội, phải vượt lên,
phải phấn đấu. Làm cha làm mẹ là phải lo
cho con cái có cơm, có chữ, phải không? Nó rành rành ra
đó, thấy không?
Sau khi lão vung tay, rướn mắt, văng nước bọt nói về chân lý “ cái cơm, cái chữ “ là xem như cái chân lý ấy lão đã bao lại được, gói nó lại và xếp vào ngăn tủ thuộc loại: “ đã giải quyết xong! “. Còn chuyện cô Bảy tối nay có ôm bụng đói, khóc râm rứt vì con mình bỏ học đi làm phụ hồ thì lão chẳng bao giờ lưu tâm .
Tôi quen lão Khoát cũng
đã lâu , từ ngày lão và hai thằng cháu dựng cái quán Gà
Ống Tre ở bìa làng , bên cạnh sông Trường Giang
nhạt nhòa bên đồi cát trắng . Trước đó ,
lão đã đi khắp xóm nói về kế hoạch nuôi gà
của lão . Khu vườn hơn công đất nằm
lẹm bên bờ sông được lão dựng chòi tranh ,
đan phên tre dựng quanh rào . Như mọi người
đàn ông xứ Quảng , lão luôn nói to hơn âm thanh cần
thiết để cho mọi người nghe:
- Nè, đâu có phải bởi tôi trồng
một vạt rau húng mà tôi phải mở tiệm phở,
rồi nói đó là phải kinh doanh từ A đến Z?
Nói cái gì cũng phải có căn cơ, nuôi một bầy
gà đâu phải là lý do mở quán? Tôi có bờ sông, tôi có
gió nồm mát, tôi có lùm tre kót két trong gió trưa hè … Chừng
đó cái có, cộng với con gà, cộng với bó rau
răm … Hà , hà thêm chút sáng kiến kinh doanh là ra Quán thịt
gà . Nhưng vấn đề là gà gì ? Có đặc biệt
không ? Có lôi kéo sự tò mò của mọi người không? Đó, rành rành vậy đó mới là có kế hoạch! Kinh
doanh mà không biết qui luật của nó là hỏng bét!
Lão nghỉ hơi,
ngắt ngang bài thuyết minh tràng giang bằng cách gỏ
gỏ mấy ngón tay cáu gắt lên cái đầu bi ve hói,
lưa thưa mấy sợi tóc bạc. Càng lý luận,
mắt lão ánh lên , khuôn mặt linh hoạt được
chấm phá bởi hàm răng lộn xộn , ố vàng
bờn bợn vì khói thuốc Như những người
Khu V, sống một thời gian dài ở đất
Bắc, trong câu nói của lão bao giờ cũng chen vào
mấy từ nhé, đấy … và vài ngữ âm phải
bấm môi, cong lưỡi để có âm vờ, âm rờ. Mới đầu thì dân trong xóm thấy là lạ về
cách nói của lão, lâu dần rồi cũng quen đi, và
lâu dần lão cũng bớt xì xì, xù xù cái âm có tiếng gió!
Quán thịt gà của
lão một thời nổi tiếng cả huyện, nghe nói
có tờ báo địa phương, có nhà Đài tới
phỏng vấn cách làm ăn của lão nữa. Lần đầu
tiên, tôi đến thăm lão Khoát là thời đó.
Ngày ấy, quán
của lão trương một bản hiệu lớn
viết rõ to bốn chữ Quán Gà Ống Tre. Dường
như để nhấn mạnh chữ Ống
được viết to và đậm nét bên cạnh
một con gà thịt vàng hườm, bóng mỡ, đang
hoát mỏ lên trời, như
đang cầu nguyện.
Tôi ngồi bên
chỏng tre chờ món gà ống tre muối tiêu chanh nổi
tiếng. Gió nồm riu riu từ dòng Trường Giang
mơn man trong nắng chiều nhàn nhạt; từ xa tít
dòng sông như tan hòa trong màu mờ mờ của cát
trắng và thùy dương. Chiều quê bao giờ cũng
bải hoải buồn vô cớ, không tên. Lão Khoát trờ
tới, đon đả như quen nhau từ thời nào.
- Ảnh ở mô
tới? Ngồi chờ thịt luộc hè? Lão quay về
phía bếp cao giọng: mấy đứa làm lẹ lên bay, đừng để ảnh chờ lâu!
Chữ “bay” rê dài và cao
lên, đúng là âm Quảng Nam dọc bờ Trường
Giang . Quán có lai rai vài người khách quê, ồn ào, rôm
rả xen tiếng bánh tráng nướng bẻ lốp
bốp. Lão Khoát chủ động bắt chuyện.
- Chú em biết không,
thịt gà ống tre thực đặc biệt ngon, nó
mềm mà không nhủn, nó béo mà không ngấy, nó có
xương mà nhai như sụn! Có vậy Quán này mới nổi
tiếng, mới lên Đài được chớ!
Tôi tò mò hỏi sao
lại gọi là gà ống tre, lão đưa cái bàn tay thô ráp, sần sùi lên đầu vê mấy sợi tóc bạc
lưa thưa, láu lỉnh nhíu mắt, nói như đánh đố:
- Chiêu độc
đó chú em! Thời kinh tế mà chú nấu không đặc
biệt không khác người làm chi thắng được. Còn chờ gà luộc chín hơi lâu, chú ra sau vườn
xem cơ sở chăn nuôi của tôi.
Tôi theo lão ra sau
vườn. Lão không còn là ông chủ quán nhà quê láu lỉnh,
thăm dò từng động thái của mỗi khách hàng
nữa; lão trở thành nhà kinh doanh khôn ngoan dày kinh nghiệm:
- Ai nói cái khó nó bó cái
khôn, nó ló cái khôn đó chú em à. Rành rành ra đó, đã làm
phải làm cho trúng, làm cà lơ là chết, làm kinh doanh
chứ phải chơi đâu ! Lão nhấp nháy ánh mắt tinh
quái, đưa tay lên đầu vuốt tóc, rồi
tiếp. Khởi kỳ thủy, tui nuôi gà công nghiệp,
gà thả vườn, ở quê mình ai chẳng nuôi gà, có
lễ tết tiệc tùng ai chẳng tự biên tự
diển: gà nhà bếp nhà, rau nhà … Thế là ế, tui bèn
làm quán bán cháo gà, cơm gà, lòng gà … Người quê mình không
đến, người ngoài phố không vào, bán cho ai? Lại ế! Cái khó lại đến, thế là cái khôn
lại ló ra ! Mình phải tìm mưu , tìm chước : Tôi
nuôi gà ống tre và quán bán đặc hiệu: gà ống tre. tôi học miếng nghề này nơi một lão nuôi gà
đá ở chợ Được. Lần đầu thấy
con gà nung núc thịt như đòn bánh tét, hai chân co rút, què
quặt, túm lông đuôi, lông đầu lún phún tôi ghê ghê;
vậy mà cầm đũa lên rồi, nhai xương
như sụn cá nhám mới thấy là đặc biệt
Đúng là đặc biệt! . Tôi học nghề nuôi gà
ống tre. Chú thấy quán tôi phất lên như diều!
nhà Đài tới phỏng vấn về sáng kiến kinh doanh,
về đặc sản … Hà, hà … người dưới
phố kéo lên chật quán vì ham thích, tò mò và trong đó có tâm
địa hơi độc ác một chút. Lão cười
khà và lại vuốt mấy sợi tóc bạc lưa
thưa như để chấm câu.
- Sao vậy Chú? - tôi hỏi .
- Cái này nó lạ
lắm chú em à. Có làm dâu trăm họ mới thấy rõ lòng
người. Ai cũng nói việc làm lành, hành thiện
vậy mà trong cái sự khoái khẩu vẫn cần có chút ác
độc nó mới làm cho cái khoái đậm đà,
một chút ác độc trong việc sát sanh nó như gia
vị trong thực phẩm. Dù món ăn chay cũng ưa
lấy trái chuối làm hình con cá trê, lấy hột
đậu đen làm đôi mắt long lanh. Có vậy khi
cắn ngập răng mới thấy cái ngon có thêm phần
khoái. Con cá, con chim, con ếch rô ti vàng mà không thấy
mỏ nghếch lên, đôi cánh chập choạng gục
xuống thì cái răng hờ hửng việc cắn xé. Chú
em thấy đúng không, rành rành ra đó mà! Nhìn con gà ống
tre mum múp thịt đỏ hỏn, thân thể chật ních
thịt như đòn bánh mà đôi chân tí xíu như chân chim
câu: cái con vật dị tật, bất toàn kia gây cho
kẻ thưởng thức sự khoái trá! Hà hà chú em không
thấy chút ác ý đó nó như vị cay cay của gia
vị sao?
Cái mà lão gọi là ác
độc đó nó bày ra từng dãy trước mắt tôi: Ống tre loại lớn được cưa từng
lóng, xếp từng hàng, có nhiều màu sơn khác nhau,
nơi mỗi đầu ống một đầu gà mào
đỏ, lông xù lú ra như đầu rùa ló khỏi mu.
Thân hình gà nằm gọn trong ống tre, chỉ có
đầu và một túm lông đuôi lưa thưa xỉa ra
phía sau, phía cuối ống có khoét lỗ cho phân rơi
xuống.
- Đây, chú em coi ống
màu xanh là vào ống được 03 tháng, màu vàng nhạt
là 02 tháng … màu nâu này là đã 06 tháng đến một năm, thịt chật ống như nêm, đưa ra chẻ
ống được rồi. Nuôi gà tre thú khoái nhất là
chẻ ống: chẻ trái dừa làm đôi thì mình biết
chắc thịt dừa trắng , nước dừa trong ;
nhưng chẻ ống tre thì hoàn toàn khác! Cầm ống tre
thấy nặng tay, lắc lắc không có cảm giác
thịt chưa khít thành ống, thế là chẻ
được rồi. Mỗi lần chẻ ra là một
khám phá, khách hàng rất thích thú cảm giác này!
- Nhưng làm sao bỏ con gà vào ống tre để nuôi?
- Lựa ống tre
mỏng cơm dài cở hai gang tay, khoét lỗ tròn
đầu lóng tre cho gà thò cổ ra mổ thức ăn,
cắt từng phần cuối ống đan rọ tre chụp
lại để gà mọc lông đuôi, lựa gà giò bỏ
vào ống, trườn tới thì được mà lui thì
không. Cứ vậy, gà thò đầu ra mổ thức
ăn, uống nước, lớn dần đến lúc
đầu không rút vào trong ống được, càng
mập ra thì thịt chặt đầu, lông trong rụng
hết chỉ còn ở chút đầu cổ, lơ thơ
mấy sợi ở đuôi … Ban đầu gà còn kêu vì tù
túng nhưng quen dần rồi thì thích thú vì khỏi
bươn chải mà vẫn có cái ăn … Càng ăn, càng
lớn, càng được bọc kín và hết
đường xoay xở … và càng ngon !!
Nhìn các dãy nhà tranh
tiếp nối, mấy bầy gà thả vườn
chạy đôn đáo tranh mồi bên đụn rơm, bên
cạnh các dãy ống tre mấy chiếc đầu gà thòi
ra lúc lắc, các cặp mắt thao láo.
Lão Khoát với lấy
một ống tre gà đưa tôi, tiếng ót ót như
giọng thái giám trong cổ họng chú gà không làm tôi ngạc
nhiên bằng cảm giác trĩu nặng, như bưng
một khối thịt đặc cứng. Lão nhìn tôi như
đo lường sự
ngạc nhiên ngở ngàng của khán giả trước
một trò xiếc ngoạn mục. Tôi thật sự kinh
ngạc! Lão Khoát kéo tôi về phía sân sau bếp. Sân gạch
nhỏ sau bếp vươn vải mấy túm lông gà,
mấy dúm ruột gà lầy nhầy o o tiếng nhặn
xanh. Lão đặt ống tre dựng đứng, trụm
lông đuôi lơ thơ nằm bẹp dí xuống sân lát
gạch tàu, đầu con gà đỏ au trang trọng
ngẩng cao nhìn thẳng trời xanh . Mào đỏ, mỏ
cong, cặp mắt vẫn thao láo nghiêm trang. Lão Khoát dùng mác
chẻ nhẹ ống tre trên nền gạch, ống tre
toát đôi như vở òa ra bởi sức căng núc ních
của khối thịt. Con gà lăn tròn trên nền,
tiếng kêu ót ót, the thé, con gà đáng thương! Nó nung
núc thịt như đòn bánh, nhưng trông còn ghê hơn khi
thấy đôi cánh rúm lại, đôi chân rút lại, mũm
mĩm như đôi bàn tay và đôi chân em bé mơn mỡn
mấy tháng tuổi gắn vào một thân hình mập ú,
mặt mũi râu ria xồm xồm! Mấy sợi lông
tơ như lông thỏ trắng, óng vàng mượt mà trên
lớp da đỏ bềnh bệch, đỏ như
đám mẩn ngứa trên da người. Con gà cứ kêu on
ót và lăn tròn , đôi chân và cánh lâu ngày không cử
động như mấy cục bọt nhão gắn
thừa thải vào thân. Hình ảnh chú gà ống tre lăn
tròn, đám mòng xanh kêu o o, tiếng con gà như thản thốt
tắt nghẹn làm tôi cảm thấy lờm lợm. Tôi
quay về chổ ngồi, một dĩa gà luộc vàng
hườm bốc khói trên bàn làm tôi nghĩ đến cái
tâm trạng ác độc mà lão Khoát vừa nói. Buổi
chiều, gió biển xa lùa vào Trường Giang, gió nồm
lăn tăn trên sông như nếp gấp của khuôn
mặt u sầu, khắc khổ.
Đã mấy năm qua
rồi, bây giờ tôi trở lại, trên trán lão Khoát lăn
tăn gợn sóng, quán xưa là GÀ ỐNG TRE, chữ
Ống bây giờ teo tóp, nhỏ lại và thành tên quán Gà Tre. Khu chợ nhỏ bên sông giờ đây đã nhiều màu
ngói đỏ, hàng quán đông đúc hơn, duy lão Khoát
đã già đi. Tôi hỏi lão tại sao thu nhỏ
chữ Ống lại
để quán thành Gà Tre. Lão trầm ngâm:
- Cái thời thịt bắp,
thịt giò, cứ cái con gì
mập ú na, ú nú, thịt lắm mỡ nhiều là hấp
dẫn, đã qua rồi! Đó là thời thiếu đói quán xá cứ khêu gợi thịt
thà, mở màng là lôi kéo khách. Lúc ấy thì cái cục
thịt nung núc, xương mềm mở ngập của
chú gà ỐngTre là chiêu hấp dẫn. Chỉ cần
luộc chín, da óng vàng treo nghếch đầu lên trong
tủ kính là cũng đủ làm lắm gả ngang qua quán, mắt liếc xéo, mà nước bọt nuốt đánh
ực! Hà, hà. Cái thời
ấy đã qua rồi chú em à; đùi, ức, phao câu
mở màng chẳng lôi kéo được ai. Bây giờ
người ta kêu gọi trở lại thời xưa,
thời vườn rộng rào thưa, gà thả
vườn, gà tre mới là món hấp dẫn . Tại sao à? Cũng phải thôi chú em à, trời cao đất rộng, cái gì quay về được thì nên quay lại cho
hợp đạo trời đất. Con gà , con vịt ,
giun , dế đều tranh sống đều nuôi nhau
sống chứ đâu có nằm ú nụ chờ sẳn
để ăn! Tôi thấy cái lý ở đời vậy
mà hay lắm chú em ơi!
Lão kéo tay tôi vào
vườn sau, mấy ống tre chẻ bỏ vươn
vải bên xó bếp bầy gà
bới mồi tốc bụi dưới gốc tre già.
- Đó, cái ngon của con
gà bây giờ nó nằm ở cái lý giản đơn là
đàn gà phải tìm cách sống, tranh sống. Phải
bươn chải để kiếm mồi, phải biết
lo rằng cái giun cái dế mình nhìn thấy đó nếu
không nhanh tay, lẹ chân thì bị đối thủ
chộp lấy . Đơn giản, quá đơn giản
phải không chú em? Vậy mà con người phải
mất khá nhiều thời gian để tìm về cái
đơn giản và lại tự hào là đã tìm ra cái
mới lạ! Con gà ống tre, chú thấy đó, cái
đầu, cái mỏ, cái mào ở ngoài ống thì phát
triển bình thường; con mắt, cái đầu, nó
thấy hết, nó hiểu hết, nhưng nó làm gì
được với cái thân nặng nề, lê lếch
trong ống Khi đói nó phải ăn, khát phải
uống; và làm sao nó cấm thịt mở nó phì ra? Cái vòng
lẩn quẩn!! Càng ở ống lâu thì càng khó thay
đổi. Giai đoạn đầu, để cứu
đàn gà lở nuôi trong ống tôi dừng cho ăn,
chẻ ống và bán tháo mấy con đầy thịt. Có
cố nuôi cũng không được, sống ngoắt
ngoải, tội nghiệp! Chà, chú có thấy mới
thương. Chẻ ống tre ra, bỏ đi cái vỏ
bao bọc, nó như ốc mượn hồn bể
vỏ, như rùa bể mu; đầu nó làm sao khiến
được cái thân nặng nề, què quặt kia?
Bỏ thức ăn trước mặt, đầu gà
nhướng cổ nhìn mà cái thân đỏ hỏn, lăn
lông lốc! Tội nghiệp! Cái đầu, cái cổ nó
quen ngọ nguậy trong một cái lổ định hình
ở đầu ống tre; cái thân nó yên ổn đầy
tự tin trong cái ống tre cứng cáp … Bây giờ nó làm sao
bươn chải, tranh dành con giun, con dế? Chẻ
ống tre ra rồi, thấy đôi mắt nó long lanh
ướt, nặng nề xoay xở, nó thừa biết
khó thể sống được trong cuộc tranh dành con
giun con dế với đám gà thả rong. Tội nghiệp
bầy gà ống tre của tôi!
Lão nói như muốn
khóc, giọng lão thỉnh thoảng trầm xuống nghe
như tiếng kẻo kẹt của hàng tre trong gió nồm
thưa. Nghe lão Khoát khẻ khàn tâm sự, lão như lão nông
tri điền ngồi bên sân nhà nhẩn nha nói chuyện
với con bò nghé bên đụn rơm trong buổi chiều
tà.
- Còn mấy con gà nuôi
năm ba tháng trong ống, lão tiếp, mới rụng
lớp lông tơ, lông ống vẫn còn, chân vẫn còn
loạng choạng bước thấp, bước cao. Chẻ
ống ra là nó đi như người say rượu,
đầu nghểnh hướng tây, chân đá
hướng đông. Bỏ thức ăn xuống
đất, mà đầu nó cứ nghếch lên trời;
phải một thời gian nó mới điều chỉnh
được để có cái nhìn chính xác về vị trí. Và khi nó biết cách định hướng, biết tranh
dành thức ăn thì cùng lúc chúng cứ tụm đầu
vào nhau rỉa rói mấy sợi lông ống đen mềm
nằm sát làn da hồng như con giun chỉ. Vườn
thì rộng, đàn gà vườn xôn xao chạy nhảy cào
bới; chổ này mấy chú gà giò ríu rít đá nhau, chổ
kia anh gà trống lẳng lơ túc túc gọi mái; chị mái
già bới tung toé lá tre tìm ổ mối, la toáng lên như
chỉ có chị ta là biết nuôi con mọn … Cuộc
sống trong vườn sống động là vậy, mà
chú em có biết không, đàn gà ống tre cứ đứng
tụm đầu dồn ở góc vườn dương
mắt chờ đợi … Chúng mổ nhau, những
giọt máu đỏ chảy dài trên làn da, dính trên mỏ và
trong các đôi mắt hoang dại, khiếp sợ … Tội
nghiệp mấy con gà ống tre của tôi. Chúng không
biết tìm mồi mà chỉ biết tìm nhau để mổ vào các vết
thương chưa lành, chưa kịp lành!!
Lão chỉ cho tôi xem
mấy ống tre cưa từng khoanh ngắn treo lủng
lẳng bên thùng lúa để ngang tầm mổ của
đàn gà:
- Để cứu chúng
tôi nghiệm ra cách này: chúng nó đã quen sống trong ống, chúng nó tồn tại và tự tin trong cái ống tre bao
bọc, che chắn và cái mỏ cứ quen mổ ăn
những gì có sẳn trước mắt, bỏ ống tre
đi, phải bươn chải tìm thức ăn thì nó
lảo đảo… ngay cả cho thức ăn
trước mắt nó cũng không còn khả năng mổ
và ăn như bình thường. Khi tôi treo mấy khoanh
ống tre trước rổ lúa, nó thích thú đun
đầu qua vòng tròn ống tre và mổ lúa ăn. Chú em có
thấy lạ không? Ôi! Thói quen quả là một bản
năng. Chắc còn lâu lắm lũ gà ống này mới
quen với đất rộng trời cao, quen với ý
nghĩ có một thế giới mềm mại,
tươi mát quanh ta, ngoài cái ống tre.
Tôi nhìn thấy mấy đọt tre nhún nhẩy theo gió nồm lùa từ dưới sông lên tiếng kọt kẹt đều đều êm ả, bên khóe mắt chân chim nhăn nhúm của lão Khoát hình như có tứa ra một chút nước !!!