Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam
Hồ Đình Vũ
Có nhiều nơi ở miền Nam
mình đã đi qua, đã ở đó, đã nghe nói tới hoặc đã đọc được ở đâu đó...riết rồi
những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi mình có dịp tìm hiểu
tại sao nó có tên như vậy?
Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học
giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi
Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một
số địa phương trên quê hương mình.
Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ý kiến từ các nguồn tài liệu khác -
để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn.
Đất Nam Việt mà trước đây người ta còn gọi là Nam Kỳ,người Tây Phương khi đặt
chân lên xứ mình hồi thế kỷ 16 , 17 đã gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong.
Người ta cũng gọi xứ này là
Đồng Nai ( đồng có nhiều nai),Lộc Dã,Lộc
Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại,là nơi mà người Việt mình đặt chân lần đầu
tiên năm 1623.Sử chép rằng Chúa Sãi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635),đã gả
Công chúa Ngọc Vạn,lệnh ái thứ 2,cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ
Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong.Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên
mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ.Chúng ta đã đặt đầu cầu tại Mô
Xoài(gò trồng xoài),gần Bà Rịa đúng vào năm 1623( Theo Claude Madrolle
-Indochine du Sud,Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đã được cử sang Oulong để thương
thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon.Về sau đến đời vua Réam Thip Dei
Chan(1642-1659),em vua trước,vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đã xin vua Cao Miên
cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Hòa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đã giao hảo với nước ta và tự ý nhân nhượng một phần nào,là
vì muốn cậy thế lực của triều đình Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm.Như
vậy chúng ta đã đến sinh cơ,lập nghiệp,khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa
thuận hoàn toàn của đôi bên,chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập.Lại
nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đã đối phó hiệu quả với những tham vọng
của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của mình.
Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp
tình,hợp lý và hợp pháp.Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là
một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của
người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đã đưa ta đến tỉnh Biên hòa ( hòa bình ở biên cương),một trấn
đã được sáp nhập vào nước ta năm 1653.Khoảng đất này xưa được gọi là Đông phố
đúng ra là Giãn phố vì hai chữ Đông và Giãn viết theo chữ Hán hơi giống nhau.Về
sau nơi này đã được triều đình Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây
di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến khai khẩn và lập
nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố,sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên hòa thì có
Hố Nai (hố sập nai),Trảng Bom( trảng là
một đồi bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao hom đọc trạnh thành
bom,sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra,dùng để trị phong hủi.
Phía dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn Hoài ,một nhà bác học đã quả quyết với
chúng tôi rằng trong một đời người,số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít
nhất cũng được vài năm!
Biên Hòa
là quê hương của Đỗ Thành Nhân ,một trong Gia định Tam hùng.Hai
người kia là Võ Tánh quê ở Gò Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An.
Biên hòa là xứ bưởi bòng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao :
Thủy để ngư,thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề,đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất khả phòng
E sau lòng lại đổi lòng,
Nhiều tay tham bưởi chê bòng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi
Châu Thới ,cao 65m trên có ngôi
chùa Hội sơn,được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19,nhờ công đức sư Khải Long:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền !
Rồi đến
Thủ Đức với những hồ bơi nước suối,và những gói nem ngon
lành.Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ,thủ hô lo về việc
thuế má và nhơn thế bộ.Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm,Thủ Thừa,Thủ Ngữ
v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước.Miền Thủ Đức lại nhắc
cho ta hai câu đối " tréo dò" "
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Có lẽ vì năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự mình sánh với cái
nem
Thủ Đức lột trần :
Người ta năm chị bảy em
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Phía tay mặt là
Gò Vấp,xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp.Thứ cây này
xưa kia được coi như thần mộc,yểm hộ cho dân tộc Chàm.Dã sử thuật lại rằng vào
đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651),vua này muốn vừa ý một ái phi
người Việt đã ra lệnh đốn cây Kraik ( vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự
uyển.Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi vì vết rìu mỗi lần bổ xong
thì khép lại ngay.Nhà vua tức giận cầm lấy rìu hạ xuống một nhát,tức thời một
tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu.Và cũng từ đó vận khí
nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành phố
Saigon,nơi mà
300 năm về trước(1674)tiền đạo quân ta lần đầu tiên đã đặt chân tới,mang theo
khẩu hiệu :" Tĩnh vi nông,động vi binh".Quân ta không phải tư động mà
đến,chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ.
Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có,đào sông ngòi trong vùng đất thấp
và đây đó khắp nơi,xây dựng thành trì kiên cố.
Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772,rồi
đến thành trì Phan An xây năm 1790,kế đến là thành
Gia Định xây năm
1836.Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đã
ghi trong câu ngạn ngữ :
Dân đất Bắc
Đắp thành Nam:
Đông đã là đông!
Sầu Tây vòi vọi!
Chúng ta đang ở trung tâm thành phố
Saigon ( Sài là củi,gòn là bông
gòn)chuyển sang chữ nho thành Sài-côn là củi gòn,vì chữ nôm gòn viết là Côn,như
Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện
nay chúng còn một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người khác thì Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay
Thay gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu,dùng để chỉ
thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên hòa vì
chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn,để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn
đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor,có
nghĩa là rừng gòn,một loại cây hiện nay còn trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille thì Saigon có thể là hai chữ nho :Tây Cống đọc chạnh ra,tên
này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đã được các vị vua phía Tây cống
hiến cho ta.Ta nên lưu ý rằng tên Siagon chỉ được dùng trong các văn kiện của
Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi
Còn danh xưng của [b] Chợ-lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon,nó chỉ
ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ-lớn kéo dài tới
tận Đại Thế Giới cũ.Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay còn tồn tại với
tên chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ.Về sau Chợ-lớn được dời tới Chợ-lớn mới
do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng,tượng họ Quách vẫn còn ở giữa đỉnh chợ Bình
Tây
Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Saigon đã tùy sự hiện diện liên tiếp của
những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng gòn),Tai- Ngon hay Thầy gòn
của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan,người phương tây dùng chữ la mã ghi là
Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực Chợ -lớn hiện thời,còn chính Saigon
bây giờ thì khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức,theo các nhà hàng hải Âu Mỹ
,theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia-long thứ 14(
1815) ghi trên vùng Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ-Rẫy ba chữ Saigon
xứ,khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm )Khu Saigon cao ,nằm phía Đồn Đất tức là cái
đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn,chắc đã có người ở từ thời
thượng cổ,chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài tìm thấy khi đào
móng nhà thờ Đức Bà.Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Bến Thành
là cái tên ở gần hào thành Gia-Định,nguyên trước có cái rạch
nối liền hào thành với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền
Thành.Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu
ca dao như sau :
Chợ Bền Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Bến Nghé
theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con,do một
tên rất cũ là Kompong Krabey ( bến trâu) đã được Việt hóa.Nhưng ông Đốc phủ
Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thườn kêu
nghé nên gọi là Bến Nghé-Trịnh hoài Đức dịch là" Ngưu-tân"Bến Nghé là
cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé,cũng có tên là Tân Bình Giang hay
là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót(theo gia-định thống chí) .Còn cái rạch Bến
nghé nối dài bởi kinh Tàu -hủ(Arroyo chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và
chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé.Bến Nghé tức là Saigon và
khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch
Thị Nghè hay là rạch Bà
Nghè.Bà tên là Nguyễn Thị Canh,con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn
Trường Hầu,đẹp duyên với một ông nghè.Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng
ngày vào làm trong thành,bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng
được.Để tỏ lòng nhớ ơn một bậc nữ lưu,họ đã gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè.Đến khi
Tây đến đánh thành Saigon,pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ
mới gọi là Arroyo de l'Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua
lại.Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là
cầu Ông Lãnh,được xây nhờ công ông
Lãnh binh,thời tả quân Lê Văn Duyệt.Còn những chiếc cầu khác là Cầu Muối,Cầu
Khóm (thơm),Cầu Kho và Cầu học(giếng học).Về các công sự thì có :
Chợ Bến Thành
(mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950
Nhà thờ Đức Bà
khởi công năm 1877,hoàn thành năm 1883
Sở Bưu Điện
và Tòa án cất năm 1883
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với sự tham dự dông đảo của dân
chúng.Thủy sư Đô Đốc De La Grandìère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte
từ HongKong tới,đã đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng
một hộp chì chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập hình vua Napoléon III.Đức Giám
mục Miche,cai quản địa phận,với một số đông con chiên,đã ban phép lành và đọc
một diễn văn lời lẽ cao quý đã làm cử tọa đặc biệt chú ý.Công cuộc xây cất trên
một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đã phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng
dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Hòa.Công tác đã hoàn thành
năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze.Sau 84
năm Pháp thuộc,ngày 7-9-1954 Đại tướng Ely,Cao ủy Pháp đã trả dinh thự này cho
Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Tòa Đô Sảnh
(1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ Ruffier trang
trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia
xây năm 1927,khánh thành ngày 1-1-1929 ,bị vụ nổ
nhà thuốc súng làm hư hại ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam
ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đã kê thành mục lục và trình bày trong
14 gian phòng.
Vườn Cầm Thảo
(Sở Thú)tương tự với rừng Vincennes ở Pháp,được lập năm
1864.Sau khi đã san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865.Ngày
28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo
Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta còn mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta còn gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như :
Ba-Son (Arsenal)
trong có một bến sửa tàu(bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm
1858,và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866.Chữ Ba-Son do chữ Bassin
mà ra.
Vườn Bờ Rô
(do chữ Jardin des Beaux Jeux)hay là vườn Ông Thượng,xưa
kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt,nay là vườn Tao Đàn.
Dakao
là biến danh của Đất Mộ(đất của lăng)
Lăng-tô
là biến danh của Tân thuận,tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát(pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đò
Thủ-Thiêm
qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương trình
kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
Con đò Thủ-Thiêm ngày xưa đã hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ :
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ-Thiêm.
nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở
về thì than ôi :
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ-Thiêm!
Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là
Nhà Bè hay là Ngã Ba
Sông Nhà Bè,nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé.Ngày
xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ
đường và ngày nay còn vọng lại mấy câu hò tình tứ của cô lái miền quê:
[b]Nhà Bè nước chảy chia hai:
Ai về Gia định Đồng Nai thì về!
Rời Nhà Bè ,chúng ta trở lại Saigon để đi về miền
Bà Chiểu,một vùng
ngoại ô trù mật ở phía đông ,chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu
Bông,vì xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn
mục.Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định,nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832),một
vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Ký thì Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lãnh Binh đã xây
cái cầu ông Lãnh.Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp
dụng,ông đã lập ra 5 cái chợ,giao cho mỗi bà cai quản một cái : Bà Rịa (Phước
Lễ),Bà Chỉểu (Gia-Định),Bà Hom (Phước Lâm),Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà Điểm
(phía Thụân Kiều).Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân thới quê hương của Cụ Đồ
Chiểu,tác giả Lục Vân Tiên,thi phẩm đầu giường của đồng bào Nam bộ là nơi bán
trầu ngon có tiếng ở Miền Nam.Món trầu là đầu câu chuyện,cho nên bao nhiêu
chuyện,hay dở gì cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả :
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư!
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để rẽ về
Phú Nhuận ,qua Cầu Kiệu hay
là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu.Phú-Nhuận(giàu
sang và thuần nhã) là nơi còn nhiều cổ tích như: Lăng Đô-đốc Võ Di Nguy,mất
tại cửa bể Thị Nại năm 1801.Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Võ quốc Công tức là hậu
quân Vũ Tính,nơi đây vua Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ
lòng mến tiếc.Võ Tánh là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới
trong những điệu hò giao duyên.Theo thường lệ :
Người con gái lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
Người con trai liền đáp lại :
Ông Tánh,Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh,trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Vìa phía Tân Sơn hòa có
Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở
vùng Saigon.Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc,mất tại cửa Thị Nại năm
1799.
Rời khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một
chiếc thuyền con về vùng
Lái-Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đã thiêu nhà
vì say rượu) để thăm vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia-Định xuống vườn thăm em.
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như : dâu da,thơm,bòn bon,mít tố
nữ,măng cụt và nhất là sầu riêng (Durion) là giống cây từ Mã-Lai đưa vào Cây
Sầu riêng thân cao lá ít,trái có gai bén nhọn kinh khủng,cho nên trời chỉ cho
phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi!Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào hàng
đầu trong các loài trái,vì nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung
hoa.Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm và khi đã
thông cảm rồi thì thèm muốn như mê say,chỉ trừ anh học trò thi rớt:
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Bòn bon,tố nữ anh quăng cùng đường!
Tại vùng Lái Thiêu,có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên ngọn
đồi xinh tươi,chung quanh có nhiều lò gốm,lò sành và một trường dạy học cho trẻ
em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến
Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng
An-Sơn,có ông huề thượng thâm nho,thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những
khách nhàn du :
Rượu
áp sanh(absinthe) say chí tử
Có người đã đối lại như sau :
Bóng măng
cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu :
Cúng bình
hoa,tụng pháp hoa,hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả,tu chánh quả,quả mãn thông Thần
(sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt san số 33 năm
1958)
Tên gọi Saigon từ đâu?
Đây là một đề tài được các nhà nghiên cứu, học giả, Tây lẫn Ta, tốn rất nhiều
thì giờ và công sức.
Cho đến nay thì có khoảng 5 giả thuyết về xuất xứ của chữ Sài Gòn, trong đó có
3 thuộc loại quan trọng hơn. Xin ghi lại 3 thuyết quan trọng hơn dưới đây:
Sài Gòn từ Thầy Ngòn (Đề Ngạn),
Xi- Coón (Tây Cống):
Đây là thuyết được đưa ra bởi 2 tay thực dân Pháp là Aubaret và Francis Garnier
( người bị giặc Cờ Đen phục kích chết ).Theo Aubaret, Histoire et description
de la Basse-Cochinchine và Garnier,Cholen, thì người Tàu ở miền Nam, sau khi bị
Tây Sơn tàn sát, đã lập nên thành phố Chợ Lớn vào năm 1778 và đặt tên cho thành
phố đó là Tai-ngon hay Ti-ngan.Sau dó, người Việt bắt chước gọi theo và phát âm
thành Sài Gòn.
Thuyết này được hai học giả là Vương Hồng Sển và Thái Văn Kiểm đồng ý. Quả
thật, trên phương diện ngữ âm, thì Thầy Ngòn, Xi Coón, rất giống Sài Gòn! Tuy
nhiên, theo lịch sử thì không phải.
Tại sao? Vì lịch sử chứng minh rằng Saigon có
trước, rồi người Tàu mới đọc theo và đọc trại ra thành Thầy Ngòn, Xi Coọn.
Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống Suất Nguyễn
Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vở "Luỹ Sài
Gòn"(theo Hán-Việt viết là "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ
Sài Gòn xuất hiện trong tài liệu sử sách Việt Nam . Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán
"Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo Nôm là
"Gòn", còn không biết đó là Nôm mà đọc theo chữ Hán thì là
"Côn".
Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Saigon!
Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt
rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng.
Sài Gòn từ Củi Gòn, Cây Gòn,
Prey Kor.
Thuyết này được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra dựa theo sự "nghe nói"
như sau:
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ; Gòn là tiếng Nam
chỉ bông gòn .Người ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bông gòn
do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn
còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận".
Pétrus-Trương Vĩnh Ký- Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, trong
Excursions et Reconnaissance X. Saigon ,
Imprimerie Coloniale 1885.
Không biết tại sao mà sau này Louis Malleret và Vương Hồng Sển lại quả quyết
thuyết này là "của" Trương Vĩnh Ký , mặc dù ngay sau đoạn này, TVK
lại viết tiếp "Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho
xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích
thực của tên đó".
Tương tự, có nhiều thuyết phụ theo nói rằng Sàigòn từ
"Cây Gòn"
(Kai Gon) hay "Rừng Gòn" (Prey Kor) mà ra.
Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính:
cây bông gòn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là không ai tìm được
dấu tích của một thứ "rừng gòn" ở vùng Sàigòn, hay sự đắc dụng của
củi gòn ở miền Nam,
kể cả nhà bác học Trương Vĩnh Ký . Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức
khoảng hơn 100 năm sau mà đã không còn dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc
dù lúc đó Sàigòn không có phát triển hay thay đổi gì cho lắm. Ngay cả khi Louis
Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng không có dấu vết gì của một rừng gòn ở
Sàigòn.
Sài Gòn từ Prei Nokor
Đây là thuyết mà thoạt đầu khó có thể chấp nhận nhứt (về ngữ âm), nhưng hiện
nay được coi như là "most likely".
Chính Petrus Trương Vĩnh Ký là người đưa ra thuyết này Trong Tiểu Giáo Trình
Địa Lý Nam Kỳ, ông đã công bố 1 danh sách đôi chiếu 187 địa danh Việt Miên ở
Nam Kỳ, như Cần Giờ là Kanco, Gò Vấp là Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc và Sài Gòn
là Prei Nokọr
Trước nhất, theo sử Cao Miên được dịch lại bởi Louis Malleret, vào năm 1623,một
sứ thần của chúa Nguyễn đem quốc thư tới vua Cao Miên và ngỏ ý muốn mượn xứ
Prei
Nokor (Saigon) và Kras Krabei của Cao Miên để đặt phòng thu thuế.
Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Histoire de la Mission Cochinchine, có
ghi
Rai Gon Thong (Sài Gòn Thượng) và Rai Gon Hạ (Sài Gòn Hạ).
Đó là theo sử sách, còn theo tiếng nói thì
Prei Nokor (hay Brai Nagara
theo tiếng Phạn mà người Miên mượn), có nghĩa là "thị trấn ở trong
rừng",Prei hay Brai là rừng, Nokor hay Nagara là thị trấn. Đây là vùng mà
chúa Nguyễn đã mượn làm nơi thu thuế như đã nói ở trên.
Theo tiến trình của ngôn ngữ, Prei hay Brai biến thành RAI,
thành"Sài", Nokor bị bỏ "no" thành "kor", và từ
"kor" thành "Gòn".
Từ
Prei Nokor …mà thành SàiGòn thì thật là …dễ sợ !
Còn sở dĩ có Saigon viết dính nhau là do
các giáo sĩ Tây phương đã bỏ mất dấu và gắn liền nhau khi in. Sau khi chiếm
nước ta, để khỏi đọc "sai" ra "sê" theo giọng Pháp nên Saigon được viết với hai dấu chấm trên chữ i.
Saigon
…muôn thuở là Sàigòn !
Ca dao tục ngữ Sài Gòn
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông, là một thành phố lớn nhất Việt Nam. Những nơi
như Saigon được mệnh danh là Kẻ Chợ, đã là Kẻ Chợ ắt có chợ, mà phải là ngôi
chợ lớn, khách Lục tỉnh lên thăm Saigon, ra vào chợ Saigon hẳn không quên. Chợ
Saigon được đồng bào Hậu Giang so sánh với ngôi chợ tỉnh nhà:
Chợ Saigon cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng.
Giã em xứ sở vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô
.
Người con gái ở đô thành tiêm nhiễm nếp sống Tây phương, chàng trai xa nàng
khỏi sao thắc mắc, lo nàng ở lại chẳng vuông tròn nên phải ra vô, nàng vuông
tròn chàng yên tâm về xứ sở.
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Saigon xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em.
Saigon và Mỹ Tho, hai nơi cách nhau trên sáu chục cây số, nay tuy thật gần
những xưa thật xa,vì phương tiện di chuyển đâu có dồi dào như nay, chàng và
nàng dù đã yêu nhau, nhưng mỗi lúc tới thăm đâu có dễ dàng, đôi bên cùng bận
làm ăn buôn bán, nàng ở chợ Saigon, chàng ở chợ Mỹ Tho. Nhớ nhung nhau, chỉ
biết tin thư thăm hỏi, lấy giấy thay lời. Chàng yêu nàng vì duyên, vì tình,
tình yêu chân thật, đâu thấy nàng giàu mà ham hoặc thấy nàng nghèo mà chê.
Chợ Saigon đèn xanh, đèn đỏ,
Anh coi không tỏ, anh ngỡ đèn tàu.
Lấy anh em đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em.
Chợ Saigon với những hàng quảng cáo đèn màu xanh đỏ, chàng trai quê lên nhầm
lẫn đó là đèn tàu. Sự lầm lẫn thị giác này có thể có được, nhưng lầm về yêu
đương, chàng đâu có lầm. Chàng lấy nàng đâu có kể sang giàu, vì tiền tài bao
nhiêu cũng có thể hết, duy tình nghĩa mới bền lâu, như người xưa đã nói:
Theo vàng bỏ ngãi ai hơi,
Vàng thời đã hết, ngãi tôi vẫn còn
.
Chính vì nghĩa mới bền lâu, nên khi xa người nghĩa, người con trai đứng ngồi
không yên:
Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa đứng ngồi không yên!
Giấy tây bán mấy,
Mua lấy tờ nguyên,
Làm thơ hỏi bạn tình duyên chuyện gì?
Mến thương nàng, đem nàng so sánh với các nàng Lục tỉnh, cô gái Saigon thật
hơn:
Nội trong lục tỉnh Nam
kỳ,
Mấy ai được nết nhu mì như em.
Hai hàng lụy ngọc ướt nhèm,
Làm sao cho đặng anh với em giao hòa
.
Sự ước vọng, lòng mong mỏi của chàng là được cùng nàng giao hòa!
Chợ Saigon ngày nay ta vẫn gọi là chợ Bến Thành, nhưng Bến Thành trước đây là
bến tàu và hàng ngày thường 10 giờ thì tàu đến bến này:
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Súp lê còi thổi bộ hành lao xao
.
Sao lại mệnh danh Bến Thành? Phải chăng đây là bến của đô thành Saigon hay của Gia Định thành? Còn khách bộ hành lao xao
vì muốn ngắm tàu Tây.
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om!
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.
Chàng trai ngồi quạt quán ở Bến Thành với bình trà Huế, được tin người mình
thương đã có nơi chốn, chàng tỏ buồn rầu quẳng cả bình trà đi! Kể cũng đáng
buồn, tưởng được cùng người thương thưởng thức bình trà (om) ngon, ngờ đâu nàng
là hoa có chủ, chàng đành ôm hận, trút mối giận vào om, cái bình trà vô tội.
Nhắc đến Bến Thành, quên sao được thành Tây:
Dân đất Bắc,
Đắp thành Tây.
Đông thật là đông,
Sầu Nam
vời vợi.
Câu này gồm đủ đông, tây, nam, bắc! Dân đất Bắc phải chăng những người dân miền
Bắc bị đưa vào Nam
làm dân phu,đắp thành cho người Tây? Số dân phu ắt nhiều lắm, Đông thật là
đông. Sự đông đúc này quả là một mối sầu vời vợi cho nước Nam, cho dân Nam! Nước mất nhà tan, thân làm nô
lệ, phải đi đắp thành cực khổ cho Tây để chúng dựa vào thành trì đô hộ đồng bào
mình. Người miền Bắc bị đi dân phu hằng than thở:
Nhà tan nước mất ai ơi,
Cái thân nô lệ sống đời cu ly!
Người dân than thân như vậy, nhưng vẫn có bọn mũ cao áo dài hà hiếp dân để nịnh
bợ quân thù! Thật đau đớn nhưng những kẻ mãi quốc cầu vinh, cõng rắn cắn gà
nhà, có bao giờ chúng nghĩ đến Sầu Nam vời vợi. Và
trong khi sống đời cu ly đi đắp thành Tây, đã biết bao nhiêu người bỏ thây cùng
công việc, ngày xưa đâu đã có máy móc, kỹ thuật xây dựng đắp hoàn toàn công ở
sức người.
Đắp thành Tây rồi xây soái phủ cho Tây, người dân Nam trong cảnh căm hờn muốn nói
không ra, đành gởi tâm tình vào ca dao tục ngữ:
Trên thượng thơ bán giấy
Dưới Thủ Ngữ treo cờ.
Kìa Ba còn đứng trơ vơ!
Nào khi núp bụi, núp bờ,
Mũi Di đánh dạo bây giờ bỏ em.
Thượng thơ, xưa chính là soái phủ miền Nam ở góc đường Tự Do và Gia Long
ngày nay. Nơi ấy có bán ấn chỉ cho dân, trong Nam quen gọi là bán giấy. Thủ Ngữ
là nơi thủy quân Pháp đóng,cọ dựng cột cờ. Con người ái quốc trông hai nơi này
căm gan sôi ruột! Ai đã khéo đạt ra cau ca dao trên để kích thích lòng căm hờn
của người dan Việt, đã nhắc đến tượng Gambotta ở vườn Tao Đàn, gọi một cách
nhục nhã là Ba Tượng một người Pháp gọi là Ba,ai là dân Việt ắt thấy nhục vong
quốc này. Nếu câu ca dao chỉ có ba dòng đầu có thể gợi sự
nghi ngờ của người Pháp, bởi vậy phải thêm hai hàng sau gắn vào, mượn lời tình
nhân oán trách tình nhân che dấu ý kín của câu hát. Tuy đây là lời tình nhân
oán trách tình nhân, nhưng cũng là lời đồng chí oán trách đồng chí, đã cùng
nhau núp bụi ngồi bờ, đã cùng nhau đánh dạo ở mũi Di, vậy mà quên nhau, về đầu
thú người Pháp để cầu công danh phú quý.
Pháp chiếm Việt Nam, một mặt dân Việt Nam căm hờn, một mặt một số cô gái Việt
Nam kém ý thức, vì hoàn cảnh đã sánh duyên với Pháp trở thành me Tây. Lính Pháp
lấy me trong thời gian ở đất Việt, rồi anh lính trở về Pháp, cô me Tây ở lại
nước Việt lại lấy chồng, đậng một anh lính khác, chẳng khác chi các nàng Giao
chỉ sau này trong thập niên 60 cho đến năm 1975 sánh duyên cùng các chú lính
Mẽo:
Saigon mũi đõ,
Gia Đinh súp lê.
Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây.
Thuyền,tàu Saigon hồi đó sơn mũi đỏ để phân
biệt với thuyền tàu lục tỉnh, như vậy thực dân tiện bề kiểm soát.
Thuyền anh ra cửa bể như rồng lên mây, câu này muốn nói khi anh lính Tây đã ra
cửa bể rồi, anh tha hồ được tự do, đến bến mới anh tha hồ kết duyên cùng người
mới.
Về các cuộc hôn nhân Việt Pháp, lúc tiễn đưa, chúng tôi đã từng nhắc tới một
câu trong ca dao hôn nhân dị chủng, xin phép được nhắc lại như sau:
Còi súp lê một anh còn than thở,
Còi súp lê hai anh nức nở vắn dài.
Còi súp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Nước mắt anh nhỏ ra, anh rút mù xoa anh chậm,
Tình nghĩa vợ chồng ngàn dặm không quên.
Cuộc tiễn đưa ắt phải xảy ra tại bến tàu Saigon, và có anh chàng Tây đã thút
thít vì phải xa vợ, anh bảo rằng ngàn dặm không quên, có thật hay chăng anh ra
cửa bể như rồng lên mây? Sao có sự mâu thuẫn giữa hai câu thơ trên, hay ý tại
ngôn ngoại, chỉ có sự mâu thuẫn trên hình thức, còn thực ra thì ngàn dặm có đời
nào mà không quên đối với những lứa đôi dị chủng, nhất là trong cuộc chắp nối
giang hồ.
Saigon nơi có đô hội lớn, phố xá rộng rãi, cây cao và rậm mát:
Đường Saigon cây to bóng mát,
Đường Chợ Lớn hạt cát nhỏ dễ đi
.
Đường Saigon có đúng cây to bóng mát, còn đường Chợ Lớn có lẽ trước đây với đất
phù sa của đồng bằng Cửu Long, cát nhỏ dễ đi chăng!Dưới thời Pháp thuộc, đường
Saigon cũng như đường Chợ Lớn đều đã rải đá và sau này tráng nhựa... Ngày nay,
với thời gian đường đã hư hỏng dù rải đá hay tráng nhựa, mà chính quyền có ít
chú ý tới sửa chữa, nên có thể có người than:
Đường Saigon ổ gà đi xóc,
Đường Chợ Lớn đi xóc ổ gà.
Ca dao Saigon có những câu rất ngộ nghĩnh,
nhắc tới địa danh một cách khéo léo:
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.
Trong bài này chúng ta bắt gặp bốn con vật ăn cỏ là Hươu, Nai, Nghé, Bò với hai
địa danh là Đồng Nai, Bến Nghé.
Dưới đây là câu ca dao nhắc tới các chợ khác ngoài chợ Bến Thành:
Mẹ đi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau chợ Vải, mua trầu chợ Dinh.
Sáng mai đi chợ Gò Vấp,
Anh mua một xấp vải đem về.
Cho con hai nó cắt, con ba nó may,
Con tư nó đột, con năm nó viền.
Con sáu đơm nút, con bảy vắt khuy;
Anh bước ra đi,
Con tám núi, con chín trì,
Ớ em mười ơi!
Sao em để vậy còn gì áo anh?
Ca dao Saigon hẳn phải còn nhiều, biết tới đâu
xin tỏ tường tới đó, những điều chưa biết xin nhờ sự chỉ giáo của người biết.
(Trích tác phẩm
"Hương Nước Hồn Quê" – Toan Ánh )
Đầu tiên được nói đến Bà Nghè, tên gọi hồi trước của con rạch Thị Nghè quận 1
sát bên Sở thú Sài Gòn. Trong Gia Định phú do Phan Văn Thị sáng tác có câu ví
ngộ nghĩnh.
Coi ngoài rạch Bà Nghè, dòng trắng hây hây tờ quyến trải,
Ngó lên giồng Ông Tố, cây xanh nghịt nghịt, lá chàm rai.
Tôi chịu thua, tìm cả trong tự điển cây "chàm rai" là cây gì, mà lá
nó xanh dữ vậy.
Nội ô Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh còn có một bà cũng nổi tiếng đó là Bà
Chiểu, nằm trên địa bàn phường 1, 2 và 14 thuộc quận Bình Thạnh. Khu vực này có
cái chợ cùng tên Bà Chiểu tấp nập ngày đêm, chủ yếu là bán lẻ. Có câu ca dao,
nghe cũng vui tai:
[b]Xe mui chiều thả chung quanh
Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi.
Có lẽ nổi tiếng nhất trong các bà là Bà Điểm. Tương truyền bà Điểm là
một chủ quán nước chè vùng Tân Thới Nhứt, Hóc Môn, có 18 thôn vườn trầu, nơi
đây Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định từng hoạt động (khoảng năm 1861).
Nói cho ngay, người Sài Gòn xưa hay đặt cho con rạch, chiếc cầu, một địa
danh,một con đường, con hẻm một cái tên (hoặc bà hoặc ông) trước là dễ nhớ, sau
là ghi lại công tích của người đó góp cho dân trong vùng; thứ nữa nhìn hình vóc
của khu vực đó mà đặt.
Thí dụ:
Bà Quẹo, là khu vực gồm các phường 13, 14 quận Tân Bình. Ai đi
trên đường Cách mạng Tháng Tám nối liền đường Trường-Chinh lên Tây Ninh, vọt
thẳng biên giới với Cam-pu-chia, có một ngã ba, nếu nhà ở hướng lộ 14 thì quẹo
trái (rẽ) vào.
Hay Bà Đô, là con rạch ở phường 1, quận 5, thông từ các ao, đầm ra rạch
Bến Nghé, nay bị lấp rồi. Bà Đô còn là tên chiếc cầu ở đầu đường Hàm Tử bắc qua
rạch Bà Đô (còn gọi là Thị Đô). Dân chèo ghe ở Sài Gòn hồi trước, qua đây hay
hát:
Kể từ chợ Sỏi trở vô
Xóm Lá là chợ, Thị Đô là cầu.
Hay như Bà Thuông, tên chiếc cầu trên kênh Tàu Hũ, từ đầu đường Tản Đà
đến đầu đường Phú Định. Trong Gia Định phú có câu ví rất hay:
Giếng
Bà Nhuận rạch cam tuyền, trai gái nhảy thỏa tình khát vọng Cầu
Bà Thuông đường quan lộ gần xa đều phỉ chí quy lai.
Tên cầu, tên rạch, tên khu vực nào đó có từ Bà rất nhiều. Như: rạch
Bà Bướm có
tên từ 1902 ở phường Tân Thuận Đông, quận 7 chảy vào sông Sài Gòn, nay nằm
trong khu chế xuất Tân Thuận. Sông Bà Cả Bảy chảy qua hai xã Trung Lập
Thượng và Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi dài 15 km từ ranh giới với Tây Ninh đến
sông Láng Thé. Bà Hom vừa là khu vực phường 13, 14, quận 6 giáp ranh với
Tân Bình và Bình Chánh, vừa là chiếc kênh ở xã Tân Tạo. Bà Tàng, vừa là
các rạch ở phường 7, quận 8, cũng là tên chiếc cầu bắc qua rạch Lào trên đường
Phạm Thế Hiển. Rồi Bà Tà, Bà Lài, Bà Hồng, Bà Lát, Bà Nghiêm, Bà Chủ, Bà
Tàng, Bà
Thiên, Bà Tiếng, Bà Xếp... cũng là cầu, là rạch, là tên riêng vùng đất. Như
tên Bà Khắc là chiếc cầu xưa ở vùng Cầu Kho quận 1. Khắc trong tiếng Nam
Bộ còn gọi là Khấc, để cầu khỏi trơn trợt.
Trong bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh có câu:
Trên cây Da Còm, nỡ để ông già gùi đội
Dưới đường Cầu Khắc, chi cho con trẻ lạc loài.
Chiếc cầu
Bà Khắc (hay Khấc) này thời nay không còn nữa.
Nhiều tên đường cũng tên bà, như đường Bà Huyện Thanh Quan trên địa bàn
phường 6, 7, 9 quận 3, hồi Pháp có tên là Rue Nouvelle, đến năm 1920 đổi thành
Pierre Fladin. Năm 1955 mới có tên Bà Huyện Thanh Quan đến ngày nay.
Bà Ký
là đường trên địa bàn phường 9, quận 6. Bà Lài là đường nối từ
đường Phạm Văn Chí với Lò Gốm, nay tên đường mới là Đặng Thái Thân. Bà Lê
Chân ở Tân Định. Năm 1906 có tên là Frostin. Đến 19-10-1955 đổi lại thành
đường Bà Lê Chân. Bà Triệu nằm sau Bệnh viện Chợ Rẫy, thời Pháp có tên
là Merlande. Năm 1955 mới đổi thành Bà Triệu... Chắc là còn nhiều
"bà" nữa mà người viết chưa có vinh hạnh làm quen xin mọi người tìm
thêm nữa.
Cũng lạ, khi đặt tên cho cái rạch, con sông, chiếc cầu, hay địa danh một vùng
đất gắn với một bà nào đó, thì có cả ca dao, câu hát, câu ví dí dỏm. Nhưng, với
cánh đàn ông thì thiệt là khô khan, chả thơ phú, câu vè, câu đố nào. Dù sao, có
bà thì phải có ông, bởi thiếu ông nghe như trống trải trong lòng vậy.
Ở Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, địa danh mang tên năm ông sau đây, cứ
nhắc tới thì cả nam, phụ, lão, ấu ai cũng rành.
Đầu sổ là
Ông Lãnh. Gắn liền với Ông Lãnh là chiếc cầu. Dạ, Cầu Ông
Lãnh, rồi chợ Cầu Ông Lãnh, và phường Cầu Ông Lãnh (Nói nhỏ: chỗ này hồi trước
bụi đời dữ lắm nghen, nay thì đỡ nhiều rồi). Đúng là có cầu, có chợ, có phường
100%, nhưng thử hỏi cắc cớ: vậy Ông Lãnh là ai vậy, thưa bà con, thì nghe chừng
ngắc ngứ lắm!Có giả thuyết cầu này do ông Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (1798 -
1866) đóng quân ở đồn Cây Mai, Thủ Thiêm và tại đình Nhơn Hòa, quận 1 gần chiếc
cầu. Vả lại,năm 1885, Trương Vĩnh Ký có viết rằng chiếc cầu gỗ do ông lãnh binh
ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh binh Thăng này, chớ không phải ai khác.
Cũng có người bảo, cầu này ở cạnh một ông lãnh sự, nên đặt chết tên luôn. Nghe
chừng chuyện này không thuyết phục mấy.
Hai là Ông Thượng
. Người Sài Gòn trọng tuổi một chút nghe đến vườn Ông
Thượng thì biết ngay là Công viên văn hóa Tao Đàn thuộc quận 1 bây giờ. Chớ hỏi
bọn trẻ,chưa chắc hiểu vườn Ông Thượng ở đâu. Vả lại, Ông Thượng là tên dân
gian gọi tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt những thập niên 20 và 30 của thế kỷ
19. Nghe nói, vườn Ông Thượng hồi đó hay có gánh hát đến biểu diễn, cả cải
lương lẫn hát bội, và Nguyễn Đình Chiểu hồi nhỏ cũng hay đến đây coi tuồng hát
bội.
Ba là
Ông Tố. Giồng Ông Tố là vùng đất thuộc quận 2, thành phố Hồ Chí
Minh, hồi năm nẳm, ở vùng này còn nhiều cọp beo và nhiều ve lắm, nên có câu:
Coi cọp, xuống Thị Nghè
Ăn ve, lên Ông Tố
.
Ve mà nướng lên ăn cũng thơm như cào cào, châu chấu vậy. Không rõ ông Trương
Vĩnh Tố có làm quan chức gì, chỉ biết ông ở gần đấy và khu đất cao (gọi là
giồng)có lẽ là của ông chăng?
Bốn là
Ông Tạ. Là chợ mang tên một thầy thuốc nam nổi tiếng Trần Văn Bỉ
(còn gọi là Tạ Thủ). Chợ Ông Tạ còn là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 của
quận Tân Bình. Nói thêm: Dân ghiền thịt chó nghe đến chợ Ông Tạ là gợi ngay đến
các hàng thịt chó nằm trên đường Cách mạng Tháng Tám treo lủng lẳng cả chục con
thui vàng rực, coi bắt mắt lắm.
Năm là
Ông Thìn. Cầu Ông Thìn bắc qua sông Cần Giuộc, nối hai xã Đa
Phước và Quy Đức, huyện Bình Chánh trên tỉnh lộ 50. Dân gian truyền rằng Ông
Thìn là tên người lái đò đưa khách sang sông. Cầu Ông Thìn được bắc dã chiến
năm 1925, nay đã nâng thành cầu đúc dài 162 m.
Có cái tên ông rất nổi tiếng ở Sài Gòn này. Đó là
Lăng Ông (dân thường
gọi là Lăng Ông Bà Chiểu). Đây là lăng của Tả quân Lê Văn Duyệt, được xây trên
khuôn viên khá rộng 18.500 m2. Nghe rằng tác giả công trình này về sau xây lăng
Tự Đức ở Huế. Ngày 16-11-1988,Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Lăng Ông là di
tích kiến trúc nghệ thuật. ở lăng có bốn cột gỗ chạm rồng rất đẹp ở chánh điện.
Cổng tam quan có cây thốt nốt tạo vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch.
Ở Sài Gòn, còn có
Chùa Ông là chùa thờ Quan Công (Quan Vân Trường) tại
xã Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức.
Tên đường chỉ duy nhất có
Ông ích Khiêm. Gắn với tên ông còn có rạch,
cầu Ông Buông ở quận 6 (dài độ 2.800 m từ ngả ba rạch bến Trâu và Tân
Hóa tới rạch Lò Gốm);rạch Ông Cái ở quận 2, rạch Ông Cốm, Ông Đồ ở
Tân Túc, Bình Chánh, rạch Ông Điền từ đất Cần Giuộc đổ vào sông Nhà Bè,
rạch Ông Đội ở quận 7, rạch Ông Mưu ở Bình Chánh; rạch Ông Nghĩa ở
xã An Thới Đông, Cần Giờ từ rừng lá đến sông Lòng Tàu.
Có cầu
Ông Lớn bắc qua kinh Tàu Hủ; cầu Ông Nhiêu, cầu Ông
Thìn, cầu Ông Tiều...Rồi đập Ông Hiền ở xã Bình Hưng dài đến
ba cây số.
Về vài địa
danh mang tên thảo mộc.
Ở Việt Nam
có rất nhiều địa danh mang tên thảo mộc. Trong khuôn khổ bài viết nầy chúng tôi
chỉ đề cập đến Gò Vấp, Củ Chi, Trảng Bàng, Giồng Trôm, Thốt Nốt và Bạc Liêu mà
thôi.
GÒ VẤP
Trước năm 1975 Gò Vấp là một quận của tỉnh Gia Định gồm có 8 xã. Quận lỵ Gò Vấp
cách Sài Gòn 10km. Đó là nơi có nhiều thành quách (An Nhơn, Hạnh Thông Tây),
vườn rau cải (Hạnh Thông Tây), ruộng rau muống (Xóm Mới), vườn dừa (An Phú
Đông, Bình Triệu), vườn sầu riêng, măng cụt (Nhị Bình), vườn bưởi (Thạnh Lộc)
với hai xã đông dân cư và phồn thịnh về kinh tế và thương mại gần Sài Gòn: Bình
Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
Sau năm 1975 Gò Vấp là một quận trong thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích Gò Vấp
bấy giờ thu hẹp chỉ còn 20 km2. Các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây trở thành quận
Bình Thạnh, Nhị Bình, Thạnh Lộc, An Phú Đông sát nhập vào quận Hóc Môn.
Gò Vấp là quận đông dân cư. Đó là nơi có nhiều giáo đường và chùa chiền. Viện
Mồ Côi và bịnh viện Cộng Hòa nằm trong quận nầy. Sau năm 1954 Gò Vấp nổi tiếng
về việc sản xuất pháo (Xóm Mới).
Địa danh Gò Vấp do tên của cây vấp mà ra. Tên khoa học của cây vấp là Mesua
coromandelina, Mesua ferrea, Mesua nagassanium... thuộc gia đình Clusiaceae hay
Guttiferae. Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka và các quốc gia Đông
Nam Á. Người Ấn Độ gọi là nagkesa; tiếng Phạn (Sanskrit): nagakesara; Khmer:
bos neak.Người Anh gọi là cobra saffron vì theo tiếng Phạn naga có nghĩa là con
rắn và chữ saffron gợi lên màu vàng của cây vấp. Tiếng anh cũng gọi cây vấp là
iron wood tree hay Ceylon
ironwood (thiết mộc Tích Lan).
Cây vấp cao từ 15 - 20m. Gỗ màu vàng rất cứng, ngâm duới nước không bị rã mục.
Lá cây vấp nhọn, thon, dài trông rất đẹp. Lá non màu đỏ bầm. Hoa to, màu trắng
bốn cánh với nhụy vàng. Hoa có hương thơm. Trái có hột dùng để lấy dầu.
Gỗ cây vấp dùng để làm nhà, ngạch đường rầy xe lửa rất tốt. Dầu lấy từ hột cây
vấp dùng để thắp đèn. Cây vấp là quốc mộc ở Sri
Lanka (đảo Ceylon: Tích Lan), nơi cây vấp được
gọi là nahar.
Người ta dùng hoa, rễ và hột cây vấp để làm thuốc trị bịnh. Hoa được dùng để
trị táo bón, đau bụng, phong hủi, ho, sốt, bất lực sinh lý. Dầu dùng để trị các
chứng bệnh ngoài da, trị ghẻ, tê thấp. Dầu cây vấp có nhiều ác xít béo: ác xít
stearic. oleic, linoleic và arachidic. Hoa khô dùng để trị bịnh trĩ, kiết lỵ.
Hoa tươi trị ngứa, kinh nguyệt, khát nước quá độ (tiêu khát; tiếu đường), ra mồ
hôi. Rễ dùng để trị rắn cắn. Lõi cây vấp có nhiều xanthones: euxanthones,
mesuaxanthones A, mesuaferrone B. Nhụy hoa có hai bioflavonoids: mesuaferrone A
và mesuaferrone B và ác xít mesuanic. Vỏ có ferruol B và triterpenoid
gutiferol.
CỦ CHI
Trước năm 1954 Củ Chi là một quận trong tỉnh Gia Định. Sau năm 1954 quận nầy
nằm trong tỉnh Bình Dương một thời gian ngắn. Khi tỉnh Hậu Nghĩa được thành
lập, Củ Chi nằm trong tỉnh tân lập nầy. Trước năm 1975 Củ Chi có 14 xã.
Sau năm 1975 Củ Chi là một quận ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh. Quận Củ
Chi nằm cách Sài Gòn 40 km. Diện tích quận Củ Chi lối 435 km2. Đa số dân đều
sống bằng nghề nông và đan thúng rổ, làm vật dụng bằng mây. Củ Chi được biết
đến nhiều trong chiến tranh vừa qua. Vùng nầy nằm trong vùng Tam Giác Sắt. Bộ
tư lệnh Sư Đoàn 25 đóng tại đây. Sau năm 1975 tân chế độ gọi Củ Chi là Đất Thép
Thành Đồng và biến Địa Đạo Củ Chi thành vùng du lịch.
Củ Chi là sinh quán của Trần Minh Tiết, Chánh Án Tối Cao Pháp Viện VNCH; Phan
Văn Khải, cựu thủ tướng CHXHCNVN.
Địa danh Củ Chi phát xuất từ tên gọi của cây củ chi tức mã tiền. Cây củ chi hay
mã tiền được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á. Tên khoa học của nó là
Strychnos nux-vomica thuộc gia đình Loganiaceae. Người Anh gọi là poison nut
(vì độc chất của mã tiền), quaker buttons, snake-wood, nux-vomica, strychnine
tree. Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm về việc dùng mã tiền (củ chi) làm thuốc.
Họ gọi mã tiền (củ chi) là kuchala. Người Trung Hoa gọi là ma qian zi.
Cây củ chi cao đến 25 m. Lá bầu như trầu. Trên lá có nhiều gân lá song song với
rìa lá. Hoa nhỏ màu trắng ngà kết thành chùm. Trái tròn màu vàng cam khi chín.
Gỗ trắng và cứng.
Củ chi nổi tiếng vì độc chất của nó. Nhưng độc chất đó cũng được nghiên cứu kỹ
lưởng để dùng vào việc chữa trị bệnh. Nó có alkaloid strychnine rất độc. Vỏ có
brucine và nhiều hợp chất độc khác. Nói chung cây củ chi có nhiều độc chất.
Nhưng dùng ở liều lượng đúng, nó trở thành thuốc trị đau bụng, gây nôn, táo
bón, mất ngủ, bịnh tim, thần kinh, tinh thần hồi hộp bất an, kinh nguyệt không
điều hòa, bịnh hô hấp của người già, viêm vành tai ngoài gây ngứa ngáy khó
chịu.
Trong y học dân gian người ta xem mã tiền như thuốc bổ tạo sự thèm ăn. Hiện nay
ở Trung Hoa người ta nghiên cứu xem củ chi có thể dùng vào việc chữa trị ung
thư gan hữu hiệu hay không.
TRẢNG BÀNG
Tràng Bàng là một quận trong tỉnh Tây Ninh gồm có 7 xã. Quận nầy nằm cách Sài
Gòn 50 km về phía tây bắc. Quận Trảng Bàng rộng lối 340 km2. Trảng Bàng nổi
tiếng với bánh canh giò heo ăn với bánh tráng phơi sương (không cần nhúng
nước), rau rừng và nước mắm pha chế đặc biệt của người miền đông Nam Bộ. Năm
1972 một bức ảnh chụp một em bé trần truồng chạy ngoài quốc lộ ở Trảng Bàng sau
một cuộc dội bom napalm trong một làng trong quận Trảng Bàng được giải thưởng
Putlitzer.
Trảng Bàng là sinh quán của giáo sư Nguyễn Ngọc An, người sáng lập hai trường
Minh Đức (Trảng Bàng) và Tân Dân (Hóc Môn). có một thời ông là tổng trưởng bộ
Thông Tin và Chiêu Hồi.
Theo từ nguyên thì Trảng (savanna) là một vùng đất trống có nhiều cỏ và cây
cùng một loại mọc lưa thưa. Bàng là cây bàng, một loại thảo mộc được tìm thấy
nhiều ở Nam Á, Đông Nam Á, Nam Hoa, các hải đảo Thái Bình Dương và biển
Caribbean.
Tên khoa học của cây bàng là Terminalia molucca (còn nhiều tên khác) thuộc gia
đình Combretaceae. Chữ molucca trong tên khoa học cho thấy nguồn gốc Molucca, Indonesia,
của loại thảo mộc nầy hay ít ra nó cũng có nhiều trên đảo nầy. Người Anh gọi
cây bàng là umbrella tree (vì bóng mát rộng lớn của nó), tropical almond (hạnh
nhiệt đới) như người Tây Ban Nha gọi almondro de la India (hạnh Ấn Độ) Người
Miến Điện gọi là badan và Khmer là pareang prang.
Cây bàng cao đến 25 m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rộng lớn. Lá bàng to,
dày và láng. Vào mùa thu lá chuyển sang màu vàng rồi đỏ rất đẹp trước khi rụng.
Trái bàng khá to, cơm dày ăn được. Hột có nhiều dầu và có mùi dễ chịu. Hột được
ăn sống hay rang chín. Lá hay hoa cây bàng đều đẹp. Lá tươi hay khô đều được
dùng làm thuốc nhuộm. Màu xanh chuyển sang màu vàng khi cho phèn chua và
sulfate sắt vào. Gỗ cây bàng rất cứng và đẹp. Nó được dùng để cất nhà hay làm
đồ mộc. Trồng cây bàng để có bóng mát, có nhiều gỗ, thanh lọc không khí, chống
xâm thực ngoài bờ biển và tạo phong cảnh đẹp.
Lá, gỗ, vỏ, hột cây bàng đều được dùng làm thuốc. Sự dồi dào tannins của lá, vỏ
làm cho cây bàng hữu dụng trong việc trị chứng tiêu chảy, kiết lỵ và đau nhức.
Hột được dùng làm thuốc trị huyết tiện (hematuria). Ở Ấn Độ người ta dùng lá
bàng trị tê thấp. Kết hợp với thuốc xức để trị ghẻ, phong hủi và các chứng bịnh
về da.
Trái bàng có ác xít tannic. Tannin của lá và vỏ cây bàng có punicalagin chống
oxy hóa. Những thí nghiệm gần đây vào chuột cho thấy hoạt chất lấy từ lá bàng
có tác dụng bảo vệ gan.
Ngoài cây bàng vừa nói qua còn có cây bàng nước mang tên khoa học Terminalia
belerica (còn nhiều tên khác) thuộc gia đình Combretaceae. Đó là một loại thảo
mộc miền nhiệt đới và khí hậu đại dương như cây bàng Terminalia molucca. Người
Anh gọi cây bàng nước là belliric myrobalan (người Miến Điện gọi cây bàng là
Balan); người Ấn Độ gọi là Bibitaki. Tiếng Sanskrit (Phạn) gọi cây bàng nước là
Vibhitaki, có nghĩa là không sợ bị bịnh. Tên gọi nầy cho thấy tính năng trị
liệu cao của cây bàng nước.
Cây bàng nước có sistosterols, ác xít gallic, ellagic, chebulagic, galloyl
glucose và đường. Hột có ác xít oxalic, protein. Vỏ có nhiều tannins.
Trái bàng nước nhuận trường, cầm máu, trị đau cuống họng, ho, đau mắt, bịnh
ngoài da, phong hủi, thủy thũng, tiêu chảy, kiết lỵ, làm cho tóc đen. Nó kháng
trùng, kháng ung thư và bảo vệ gan chống nhiễm độc chất.
GIÒNG TRÔM
Trước năm 1975 Giòng Trôm là một quận của tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) với 15 xã.
Sau 1975 nó vẫn là một quận của Bến Tre với diện tích lối 310 km2. Quận lỵ
Giòng Trôm nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 15' và đông kinh tuyến 106 độ 05'.
Giòng Trôm là một quận nông nghiệp. Đó là quận sinh quán của Cử Trị tức Phan
Văn Trị (1830 - 1910), người đả kích Tôn Thọ Tường hợp tác với người Pháp vào
thế kỷ XIX; tướng Đồng Văn Cống, Nguyễn Thị Định trong hai cuộc chiến tranh
Việt Nam vừa qua. Tân chế độ luôn nhắc và tự hào về cuộc Đồng Khời Bến Tre xuất
phát từ Cù Lao Bảo và Cù Lao Minh trong quận Giòng Trôm vào ngày 17-01-1960 mở
đầu cho cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai (1960-1975).
Ở Nam Bộ có rất nhiều địa danh có chữ Giòng như Giòng Ông Tố, Giòng Gạch, Giòng
Ông Khuê v.v. Giòng là vùng đất cao ít nước, Trôm là cây trôm. Có hai loại cây
trôm:
1- Trôm hôi Sterculia foetida.
2- Trôm nhựa Sterculia hypochra.
Cả hai loại trôm nầy đều thuộc gia đình Sterculiaceae như cây cola, cây lười
ươi hay gia đình Malvaceae như bông vải, cây gòn.
Thảo mộc thuộc gia đình Sterculiaceae đều có mùi hôi khó chịu. Theo tiếng La
Tinh Stercus có nghĩa là "phân". Chử foetida trong tên khoa học của
cây trôm hôi phản ảnh mùi hôi của nó. Người Anh gọi cây trôm hôi là Java olive
((ô-liu Java), Skunk tree (cây chồn hôi). Người Lào gọi là som hong.
Cây trôm hôi được tìm thấy nhiều ở Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Việt Nam,
Ấn Độ. Ở Hoa Kỳ nó được tìm thấy ở Hawaii, Arizona. Cây trôm cao từ 15-25 m. Lá
dày, dài và láng rất đẹp, cùng một cuống có 5 lá tụ lại thành hình ngôi sao.
Hoa đỏ rất đẹp. Trái có vỏ dày. Bốn năm trái tụ lại tạo thành hình ngôi sao đỏ
khi chín. Khi lớp vỏ cứng bên ngoài vỡ ra, bên trong có nhiều hột màu đen nhạt.
Hột rất chắc và có nhiều dầu. Người ta dùng dầu trôm để thắp đèn. Hột trôm rang
dùng để ăn. Gỗ trôm không cứng chắc nên không có giá trị trong ngành mộc. Nhưng
cây trôm cho bóng mát và tạo cảnh đẹp cho vùng khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt
đới.
Hột trái trôm có ác xít sterculic, oleic, myristic, palmitic, tristerculin,
tristearin, ác xít béo và glycerides. Hột trái trôm nhuận trường. Dầu trôm màu
vàng nhạt có thể dùng như dầu ô-liu trong nấu nướng hay dùng để thắp đèn. Ở Cambodia người
ta dùng dầu cây trôm làm mỹ phẩm. Bánh dầu dùng để trị ghẻ ngứa.
Cây trôm nhựa Stercularia hypochra có nhiều ở những vùng nhiệt đới và bán nhiệt
đới trên thế giới. Người Khmer gọi là Tlon. Tỉnh Biên Hòa là nơi có nhiều cây
trôm nhựa. Hoa trôm nhựa màu vàng và có lông mịn. Trái hình trứng. Nhiều trái
tụ lại thành hình ngôi sao như cây trôm hôi. Trái có vỏ ngoài rất cứng. Hột đen
nhạt rất chắc. Hột có nhiều dầu. Thân cây trôm nhựa có nhiều nhựa. Khi dùng dao
băm vào thân cây, nhựa tuôn ra. Nhựa đó là Gummis sterculiae hydrochae màu vàng
nhạt dễ hòa tan trong nước. Khi ra không khí nhựa chuyển sang màu đen. Theo
kinh nghiệm dân gian người ta dùng nhựa nầy để ăn cho mát cơ thể và để trị
chứng tiêu chảy. Ở Phi Châu người ta dùng nhựa để trị tiêu chảy. Nó hữu dụng
trong ngành nhuộm.
THỐT NỐT
Trước năm 1975 Thốt Nốt là một quận của tỉnh An Giang (tên cũ: Long Xuyên).
Quận Thốt Nốt gồm có 9 xã. Đó là một trong những vùng nông nghiệp trù phú bên
châu thổ sông Cửu Long. Thốt Nốt là quận tương đối "thái bình" trong
cuộc chiến tranh vừa qua. Thốt Nốt có nhiều tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Về vị trí
địa lý đó là trục giao thông bằng đường thủy quan trọng nối liền các tỉnh An
Giang – Phong Dinh (Cần Thơ) – Châu Đốc – Kiến Phong.
Sau năm 1975 Thốt Nốt là một huyện trong tỉnh Cần Thơ. Huyện nầy cũng có 9 xã
như trước.
Thốt Nốt âm từ chữ Thnot của người Khmer chỉ một loài thảo mộc giống như cây
dừa. Nhựa của cây nầy được dùng để làm ra đường "thốt nốt" khác với
đường mía.
Tên khoa học của cây thốt nốt là Borassus flabellifer thuộc gia đình Palmae (lá
cọ) hay Arecaceae (dừa, cau).
Tên gọi của người Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha về thốt nốt luôn có chữ Palmyra. Palmyra
là tên một thành phố cổ ở Syria
gần thủ đô Damascus.
Trong Thánh Kinh Do Thái thành Palmyra
được biết dưới tên Tadmor.
Có phải chăng cây thốt nốt xuất phát từ Palmyra,
Syria?
Hay Phi Châu như tên gọi African fan palm của người Anh?
Cây thốt nốt được tìm thấy nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka, Mã Lai, Indonesia, New
Guinea, Miến Điện, Thái Lan, Cambodia. Có thể cây thốt nốt ở Đông Nam Á gốc Ấn
Độ, nơi cây thốt nốt được gọi là TALTAR. Ở Miến Điện, Thái Lan âm Tan của chữ
TAL (âm đầu của chữ taltar) được tìm thấy như tanabin (Miến) và tan-yai (Thái).
Ở Mã Lai và Indonesia
nơi ảnh hưởng ngôn ngữ và văn hóa của Ấn Độ rất đậm nét âm TAR (âm sau cùng của
chữ taltar) được tìm thấy trong tên gọi LONTAR.
Ở Ấn Độ và Sri Lanka
có nhiều đồn điền thốt nốt. Thốt nốt được xem là thiên thanh mộc vì có công
dụng đa dạng. Người Việt Nam
biết đến cây thốt nốt khi tiếp xúc với người Khmer vào thế kỷ XVII và XVIII.
Cây thốt nốt cao từ 20 - 25 m. Cây hao hao giống cây dừa. Tàu lá cũng hao hao
giống tàu lá dừa. Tàu lá dài đến 2 - 3 m. Trái thốt nốt nhỏ chớ không to như
trái dừa. Khi còn non nó có 3 cạnh vì mỗi trái có ba hột bên trong. Khi lớn
trái có hình bầu dục. Cơm và hột trái thốt nốt đều ăn ngon.
Khác với cây dừa, cây thốt nốt chịu nắng hạn rất tốt. Cây có nhiều công dụng
trong đời sống cư dân miền nhiệt đới và bán nhiệt đới như cây dừa vậy. Gỗ cứng
màu đen đỏ, dùng làm nhà hay hàng rào. Miến Điện là quốc gia xuất cảng gỗ thôt
nốt nổi tiếng. Lá thốt nốt dùng để lợp nhà, đan thúng rổ, nón, quạt hay chầm
làm áo mưa. Ngày xưa người Indonesia
và Khmer dùng lá thốt nốt làm giấy để khắc chữ viết để lưu văn kiện và tài
liệu.
Nhựa cây thốt nốt dùng để làm đường hay cho lên men để làm ra rượu arrack hay
làm giấm. Trung bình một cây thốt nốt có thể cho 350 trái mỗi năm. Mỗi cây cho
4 - 5 lít nhựa mỗi ngày suốt 200 ngày trong năm. Tàu lá phơi khô dùng để làm
củi nấu nướng. Tàu lá có nhiều sợi. Người ta chẻ tàu lá tươi để làm dây cột hay
bện thành dây thừng to và bền chắc.
Đường thốt nốt bổ hơn đường mía vì có nhiều glucose, sucrose, chất béo, chất
sắt, chất vôi, phosphorus và sinh tố B.
Cây thốt nốt non dùng để trị kiết lỵ, làm rau. Rễ rất nhuận tiểu, lợi cho bộ hô
hấp và khả năng diệt lãi trong đường ruột. Người ta đốt mo bông lấy tro để chữa
bệnh gan và sưng lá lách. Vỏ cây thốt nốt sắc nước dùng để súc miệng. Nhựa lấy
từ hoa thốt nốt rất bổ, nhuận tiểu, kháng khuẩn, tiêu đàm. Đường thốt nốt dùng
để chữa viêm da.
Người Việt Nam
trồng dừa nhưng không trồng thốt nốt và dùng đường mía chớ không dùng đường
thốt nốt. Người viết bài nầy dành cho độc giả quyền suy luận để tìm hiểu cái
tại sao của tiền nhân khi ở địa danh Thốt Nốt không có cây thốt nốt.
BẠC LIÊU
Bạc Liêu nằm về phía đông nam Nam Bộ cách Sài Gòn 280 cây số về phía nam. Vùng
đất nầy hình thành trên bản đồ hành chánh vào năm 1735 do công lao của Mạc
Thiên Tích. Vào thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, Bạc Liêu là một huyện của trấn
Hà Tiên (Hà Trấn). Năm 1833 Hà Trấn được đổi thành tỉnh Hà Tiên. Dưới thời Pháp
thuộc Bạc Liêu là một trong 21 tỉnh ở Nam Kỳ. Tỉnh Bạc Liêu có các quận: Giá
Rai, Cà Mau, Thới Bình, Quản Long, Tân Bang, Năm Căn Đông và Tây, Vĩnh Châu.
Năm 1956 quận Giá Rai sát nhập vào tỉnh Ba Xuyên (tên cũ: Sóc Trăng). Các quận
còn lại nằm trong tỉnh An Xuyên.
Sau năm 1975 tỉnh An Xuyên được đổi thành tỉnh Minh Hải. Năm 1996 tỉnh Minh Hải
được chia ra làm hai tỉnh:
1- Tỉnh Bạc Liêu (Bắc)
2- Tỉnh Cà Mau (Nam)
Tỉnh Bạc Liêu có 6 huyện: Đông Hải, Giá Rai, Hòa Bình, Hồng Dân, Phước Long,
Vĩnh Lợi. diện tích lối 2.500 km2. Đó là một tỉnh trù phú về lúa gạo, ngư sản.
Bạc Liêu là nơi có nhiều người Việt gốc Hoa và người Khmer Krom sinh sống. Đó
là chiếc nôi của Vọng Cổ Hoài Lang, là sinh quán của Công Tử Bạc Liêu Trần
Trinh Huy (1900-1973) nổi tiếng hào sảng nhất nước thời thuộc địa.
Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu.
Bạc Liêu âm từ tiếng Khmer Po-Loeuth có nghĩa là cây da to lớn. Tên khoa học
của cây da là Ficus indica hay Ficus benghalensis cho thấy xuất xứ Ấn Độ và
vùng Bengal của cây da.
Đó là một loại thảo mộc miền nhiệt đới và khí hậu đại dương được tìm thấy nhiều
ở Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan, các nước Đông Nam Á, hải đảo Thái Bình Dương
v.v... Cây da cao lối 25m, có nhiều nhánh nên cho bóng mát rất tốt. Gốc cây rất
to. Ngoài rễ dưới đất nó còn có nhiều rễ treo trên cành và đâm thẳng xuống đất
để trở thành một thân cây nhỏ khác. Những cây da cổ thụ ở Sri Lanka hay
Ấn Độ có nhiều cây nhỏ bao quanh như một đám rừng vậy. Cây da cổ thụ ở Sri Lanka có
350 thân cây lớn với 3.000 cây thân nhỏ! Trong Vườn Bách Thảo Quốc Gia Kolkata
ở Ấn Độ có cây da 300 tuổi và cho bóng mát trên một châu vi 1.000m. Cây da là
quốc mộc của Ấn Độ. Lá cây da to, láng và dày. Trái tròn khi chín chuyển sang
màu đỏ giống như trái sung. Cây da rất cần nước nên nó không thể mọc ở những
vùng đất khô hạn.
Người Ấn Độ gọi cây da là bargad, banya. Nhiều nơi khác ở Ấn Độ gọi cây da là
Vada. Tiếng Sanskrit gọi là bahupada. Có phải chăng chữ ĐA mà người Việt Nam gọi là âm
cuối cùng của chữ VADA hay BAHUPADA? Người Anh gọi cây da là Banyan tree,
Indian banya tree xuất phát từ chữ banya của Ấn Độ mà ra. Chữ banya không có
nghĩa là cây cối gì cả mà có nghĩa là cửa tiệm hay thương nhân. Vì ngày xưa
người Ấn Độ mở cửa tiệm dưới bóng mát của cây da để buôn bán. Ở nước ta có quán
bà Bầu dưới gốc cây da nên trước năm 1954 ở Sài Gòn-Chợ Lớn có đường Da Bà Bầu
(quán của bà Bầu dưới tàng cây da. Người Nam Bộ gọi là CÂYDA chớ không phải CÂY
ĐA).
Y thư Ayurveda của Ấn Độ trân quí cây da. Lá, rễ, trái, rễ treo, nhựa cây da
đều được dùng làm thuốc cầm máu trị xuất huyết, trĩ, binh về mật, đau âm hộ,
ho, sốt, lở loét, ói mửa, viêm, phong hủi.
Nhựa được xem là bổ dưỡng, kích dục, giảm viêm, trị lâm lậu.
Rễ được dùng để trị giang mai, bịnh về mật, kiết lỵ, tiêu chảy, viêm gan.
Lá cây da lông tức lá tì bà dùng để trị ho và thủy thũng.
Ở Việt Nam
dước gốc cây da thường có một cái miếu nhỏ thờ Thần. Từ đó có câu:
Thần cây da, Ma cây gạo, Cú cáo cây đề
Cây da cậy Thần
Thần cậy cây da.
Trong văn chương Việt Nam
người ta thường mượn hình ảnh cây da đầu làng, cây da bến nước, cây da đầu đình
để gợi tình hoài hương. Ca dao Việt Nam nói nhiều về cây da như:
Cây da cũ, con én rũ, cây da tàn,
Bao nhiêu lá rụng, em thương chàng bấy nhiêu.
Trăm năm dẫu lỗi hẹn hò
Cây da bến cũ con đò khác đưa.
Cây da bến cộ còn lưa,
Con đò đã thác năm xưa tẽ rồi.
Trong chuyện cổ tích có chuyện Cây Da với Thằng Cuội tạo nguồn cảm hứng cho Lê
Thương phổ nhạc. Vào thế kỷ XVIII Phạm Đình Hổ tức Chiêu Hổ (chiêu: cậu ấm, cậu
chiêu, con của các tiến sĩ ngày xưa) cũng dựa vào cảm hứng nầy khi viết:
Khi nào trong thả lên cung nguyệt,
Cho cả cành đa với củ đa.
***
Dùng tên thảo mộc để đặt địa danh cho thấy tiền nhân chúng ta ý thức được tầm
quan trọng của cây cỏ trong đời sống. Sự gia tăng dân số, nhu cầu xây dựng nhà
cửa, các công trình lợi ích công cộng, việc phá rừng khai thác gỗ, làm củi, hầm
than hay nới rộng diện tích canh tác, chiến tranh, bột hóa học khai hoang hủy
hoại một số thảo mộc đáng kể trong nước. Các địa danh ghi trên không còn mang ý
nghĩa ban đầu của chúng. Chiến tranh ma túy trên thế giới đua cây coca
Erythroxylum coca, cây thẩu Papaver somniferum và cần sa Cannabis sativa vào
nguy cơ tuyệt chủng. Nếu Jean Jacques Rousseau còn sống, ông vẫn giữ câu nói
của ông:
"Tout est bien sortant de la main de l'auteur des choses. Tout dégénère
entre les mains de l'homme."
Thảo mộc là sản phẩm Thiên tạo. Á phiện, cần sa, cocain là sản phẩm Nhân tạo.
Phạm Đình Lân. F.A.B.I.
Phần 1
Tên do địa hình, địa thế
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
"Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa..."
Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai
củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: "trên đất
giồng mình trồng khoai lang..."
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở
thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
"Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em..."
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Luơng đến cầu Long
Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai
bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người
miền Nam
gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và
dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng
để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy
truông là gì?
Truông
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu
người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền
Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
"Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang"
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá
Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít
người dám qua lại.
Phá
là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước
xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh
ThừaThiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là
sông Hương đổ ra cửa Thuận An.
Bàu
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước
nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi
Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây
giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập
nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận
cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra
hai bên nhưng vẫn dòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm
Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải
trí rất lớn.
Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước
đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng... mọc. Mùa mưa ở
bưng thường có nhiều cá đồng.
"...về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa".
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm
thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như
vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4
Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn
tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến
thời Pháp thuộc.
Trảng
chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu
rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có
nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng Bom, Trảng Táo.
Đồng
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa
những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua
khỏi ngã tư Bình Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài
Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì
trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất
vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy
dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có
Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà có Hố Nai, là nơi
những người Bắc di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
Phần 2
Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer
Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người
Khmer sống chung với nhau,văn hoá đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu
hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại
bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hoá một cách tài tình.
Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek
Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa
thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn
Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán
Việt "cần" và "thơ". Cần Thơ
không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa.Nếu dò tìm trong hướng các địa danh
Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm
của từ Khmer "kìntho", là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ,
thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá
"lò tho". Từ quan điểm vững chắc rằng "lò tho" là một danh
từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer "kìntho",người
nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của
người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần
Thơ xuất phát từ danh từ Khmer "kìntho".
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn
Việt Nam,
"mỹ" và "tho", không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu
trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người
Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là
"Srock Mỳ Xó" (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ
Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất
phát từ tiếng Khmer "Srock Khléang". Srock có nghĩa là xứ, cõi.
Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà
vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc
Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã
đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán
Việt là giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba
Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Bãi Xàu
Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có
một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải
gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không
có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer "bai xao" có
nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì
nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn
cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.
Kế Sách
Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa
của sông Củu Long),
phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và
mía. Cát tiếng Khmer là K'sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hoá tiếng Khmer
"k'sach".
Một số địa danh khác
Cái Răng
(thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của "k'ran", tức cà
ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất
hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh
xuất phát từ "prha trapenh" có nghĩa là ao linh
thiêng. Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer "Prek Trakum", là
sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc
xuất phát từ "Phsar Dek", phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La
, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng
Khmer "srala",là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau
là sự Việt hoá của tiếng Khmer "Tưck Khmau", có nghĩa
là nước đen.
Phần 3- Địa danh do công dụng
của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn
hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người
ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và
thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên,
có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều
nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen
thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài
Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ còn được
phân biệt như sau;
- Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở
Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài
Gòn.
- Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà
Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
- Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt)
ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về
mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm
Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình...
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn
ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ
Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn
có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây
suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới
hay làm bủa để nuôi tằm).
Thủ
là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước
nên "thủ" đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng,
như:Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An),Thủ Dầu Một (Bình
Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản
các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền
với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu
mọc lẻ loi. (lý luận chỗ này có vẻ hơi bậy )
Bến
ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu
lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe
đò,xe hàng, xe lam...
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất
lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một
số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức.Bến
Gỗ ở Biên Hoà.
Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một
loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá
nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).
Một số trường hợp khác
Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã
năm, ngã bảy, cầu, rạch...thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của
một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được
hình thành theo cách này: Ngả Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông
Tạ...Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình
thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau
của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc
ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải
đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định
hoặc Đồng Nai.
"Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về."
Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản "thủ" ở vùng
đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ
phải đền trả những tội lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc
bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở
giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền
đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt
nguồn từ đó.
Kết
Miền Nam là đất mới đối với
người Việt Nam,
những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những
nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu
truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc
dấu vết nguyên thuỷ đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần
Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương
Chợ Quán...chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi
(có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công
lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi,
bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài
Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một
số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cũ ở
nơi đó để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm
sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được
phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận,
như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt;
còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái
tên được viết khác đi).
Thủ Đức
Ai chẳng một lần nghe nói đến nem Thủ Đức. Người ta nhắc đến cái địa danh Thủ
Đức, Xuân Trường như là một nơi danh thắng để giai nhân, tài tử, tao nhân mặc
khách đến đây thưởng thức phong quang.
Theo lời truyền khẩu của các vị bô lão ở địa phương : Khi xưa, có vị thủ đồn
đầu tiên ở nơi này tên là Đức. Đến sau, ông Tạ Dương Minh đứng ra qui dân lập
chợ buôn bán, nhớ đến công vị thủ đồn tên Đức, nên lấy tên và chức tước của ông
mà đặt cho chợ, gọi là chợ Thủ Đức nay đã thành danh.
(trích trong cuốn Gia Định Xưa của Huỳnh Minh)
Gò Vấp
Gò Vấp là tên một quận của tỉnh Gia Định. Gọi là Gò Vấp có ý nghĩa gì ? Chúng
tôi đã dụng công ra tìm những sử sách và hỏi thăm các vị bô lão, nhưng chẳng
tìm hiểu được gì đích xác.
Tuy nhiên, theo truyền thuyết, cũng có thể tin được, địa danh mang tên Gò Vấp,
vì lúc trước nơi ấy là một ngọn đồi trồng cây Vấp (theo tiếng Chàm gọi là Krai,
tiếng Việt là Vấp hay Lùn). Thứ cây Vấp là thứ cây mà dân Chàm coi như thần
mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm.
Đồng Ông Cộ
Đồng bào ở tỉnh Gia Định từ xưa tới nay thường nghe nói đến tên "Đồng Ông
Cộ" nhưng không hiểu rõ cụm từ này do ai đặt ra mà được truyền tụng mãi
đến ngày nay.
Ở miền Nam
chúng ta, địa phương nào cũng có nhiều huyền thoại, giai thoại truyền khẩu
trong dân gian, lâu ngày trở thành một địa danh.
Chúng tôi, người tình nguyện vạch bóng thời gian,ghi lại những sự việc xảy ra
từng vùng,từng địa phương, để hiến quí bạn đọc hiểu rõ nguồn gốc từ thuở xa xưa
nơi địa phương chính mình. Theo một vài vị bô lão cố cựu sinh quán tại Gia
Định, thuật lại sự tích "Đồng ông Cộ" cho chúng tôi biết như sau.
Đất Gia Định ngày xưa rộng lớn hoang vu, dân chúng ở rải rác từng nhóm theo
ruộng gò nổng, rừng chòi dày đặc,đường sá chưa được khai mở, lối đi vất vả khổ
cực.
Khu đất "Đồng ông Cộ" này ngày xưa thuộc vùng sát cận trung tâm tỉnh
Gia Định. Nó ăn từ chợ (ngã ba trong) dài tới cầu Hang; vòng ra đường Nguyễn
Văn Học, phía bên này cầu Bình Lợi nó ăn sâu luôn phía trong có hơn 10 cây số,
rồi vòng ra khu Hàng Xanh phía lò heo cũ Gia Định chạy dài tới ngã năm Bình
Hoà.
Toàn thể khu vực rộng lớn như vậy,thuở xưa không có lấy một con lộ cái quan nào
để dân chúng xê dịch. Dân cư trong vùng, sinh sống về nghề ruộng nương, rẫy
bái, làm nghề hạ bạc (đánh cá) dọc theo sông cầu Bình Lợi, cầy Băng Ky
bây giờ. Những khoảng đất không được khai phá thì toàn là rừng chồi cây lùm mọc
rậm rạp.
Về sau, Tây lấy Gia Định rồi thì mở mang quốc lộ đi Thủ Đức và khu sát rìa quốc
lộ, ăn sâu vô hằng 5-7 cây số (từ phía Gia Định lên nằm bên tay mặt),được Tây
khai phá làm rừng cao su. Toàn thể một khu đồng ruộng mênh mông như vậy, hơn
phân nửa đất đai toàn là rừng rậm, dân cư lại ít nên không có nhiều đường mòn
để
xê dịch. Dân chúng di chuyển bằng ngựa cũng không tiện chớ đừng nói chi đến
dùng xe bò hoặc xe trâu. Đây khác hơn mọi nơi là chỗ đó!
Mỗi khi dân cư trong vùng này muốn ra tỉnh, lúc đó là thành Gia Định, có việc
cần kíp, hoặc rước thày trị bệnh, hoặc tải hàng rẫy, gạo thóc ra chợ bán,hoặc
mua đổi các thứ cần thiết đem về dùng.... thật là muôn vạn khó khăn. Chỉ có
những trai tráng khoẻ mạnh mới có thể di chuyển nổi hằng mấy chục cây số đường
lồi lõm không khác lên thác xuống ghềnh, khu đất này lại nhiều chỗ dốc lên, dốc
xuống, đồi nổng..v.v.. Rất ít chỗ được khai phá, thành giồng như xuyên rừng
vậy. Mà hễ mỗi lần đi như vậy thì ruộng nương, rẫy bái ở nhà lại không ai khai
phá, làm lụng sản xuất. Lại mỗi lần đi ra thành thì lại mất ít nhất 2 ngày - 1
ngày đi, 1 ngày về mua bán, đổi chác.
Một ngày, bỗng dưng người ta thấy trước cổng nhà của một ông Phú Hộ với nhà
ngói 3 gian, 2 chái, 1 dãy nhà bếp, nền đúc cao treo tấm bảng lớn đề mấy chữ :
"Đảm nhận 'Cộ' người và hàng hoá đi khắp nơi".
Đồng thời với tấm bảng treo lên, ông Phú Hộ trong vùng gọi là ông Ba Phú Hộ
truyền thâu dụng tất cả thanh niên vạm vỡ trong toàn khu, hay bất cứ nơi
nào,muốn có chuyện làm, ngoài nghề ruộng rẫy.
"Cộ người và hàng" !
Đó là một lối tải người và hàng hoá giản tiện hơn cả võng hay kiệu.
Ông Ba Phú Hộ bèn cho dân đan những tấm vạc bằng tre, hai đầu có 4 lóng tre ló
ra giống như cái băng ca nhà thương khiêng bệnh, để người đầu trước người đầu
gác lên hai vai, khách thì ngồi ở vạc tre khúc giữa thòng chân lủng lẳng để
người "Cộ" đi.Hàng hoá thì lại để ở khoảng giữa, thay vì tấm vạc tre
đương thì nó là một miếng ván dày để có thể chất nhiều đồ mà không bị oằn chính
giữa.
Người sử dụng muốn mướn chỉ cần cho ông Ba Phú Hộ hay trước, cho biết nhà rồi thì
sáng sớm, khi gà vừa gáy là có dân phu mang "Cộ" đến tận nhà mà rước
người, hoặc "Cộ" hàng đi ra thành Gia Định.Từ đó, dân cư bắt đầu xê
dịch dễ dàng, không nhọc mệt, bận tâm, hay tốn hao người mỗi khi tải hàng đi ra
thành.
Rồi thì, thời gian trôi qua, địa danh xuất hiện theo miệng người cư ngụ trong
vùng. Khi hỏi:
- Ở đâu ?
Bèn đáp:
- Ở trong đồng ông Ba "Cộ" !
Ông Ba "Cộ" đây có nghĩa là ông Ba Phú Hộ"Cộ" người và hàng
hoá.
Dần dần, hàng trăm năm sau vùng này được mở mang, nhưng là một vùng rộng lớn,
dân chúng quy tụ về càng ngày càng đông lại không có địa danh, nên người ta nhớ
ơn ông Ba "Cộ" lập thành vùng này thành địa danh gọi là "Đồng
ông Cộ" cho đến ngày nay.
Cộ
- danh từ: xe quệt. (td. trâu kéo cộ, một cộ lúa)
- động từ: kéo đi, mang chở, khuân lấy (td.
cộ lúa từ đồng về nhà)
ăn. (td. nồi cơm lớn quá mức tụi tôi đâu
có cộ nổi)
đảm đương (td. nhiều việc quá liệu
mình có cộ nổi khổng)
(Theo cuốn Tự Điển Phương Ngữ Nam Bộ.)
(Xe quệt, là loại xe dùng trâu hoặc bò để lết trên mặt đất. Khung xe bằng tre
đặt trên 2 cây trượt. Đầu 2 cây trượt được gông vào càng xe. Người ta dùng dây
chão buộc càng xe vào vai của trâu hoặc bò. Đây là phương tiện vận chuyển đường
dài chủ yếu dùng trong mùa vụ nông nghiệp, thích ứng với địa hình phức tạp.)
Xe-cộ là danh từ kép, trong trường này, chữ cộ phải là danh từ để đứng chung
với chữ xe. Cái xe và cái cộ cùng là danh từ chỉ một vật dùng để chuyển tải
(người hoặc hàng hoá).
Giống như danh từ kép chợ-búa, chợ và búa là hai danh từ đồng nghĩa, nhưng chữ
búa là từ cổ đã biến mất không ai dùng nữa, chỉ còn tồn tại trong từ kép
chợ-búa.
(trích trong cuốn Gia Định Xưa của Huỳnh Minh)
Đồng Tháp Mười
Chú thích năm 1970. Theo tôi, thuyết dưới đây của ông Lê Hương có phần đáng tin
hơn cả. Trong bài Địa danh, di tích, thắng cảnh trong vùng người Việt gốc Miên,
tập san Sử Địa số 14, 15 năm 1969, ông viết: "Tháp mười là một trong những
ngôi tháp làm bằng đá do vua Jayavarman VII xây cất khắp lãnh thổ để thờ vị
thần Bà La Môn Lockecvera là vị thần chuyên trị bệnh cho nhân loại. Bên cạnh
tháp có những căn nhà sàn gỗ lợp bằng đá mỏng,bằng ngói hay bằng lá thốt nốt để
người bịnh nằm dưỡng bệnh do nhân viên y tế hoàng triều coi sóc. Những ngôi
tháp được xây dựng dọc theo các con đường lớn trong nước mà ngôi nằm trong đồng
Tháp Mười, tính từ địa điểm xuất phát, đứng vào hàng thứ muời.
Thời gian trôi qua, tàn phá tất cả các công trình kiến trúc của cổ nhân, dãy
nhà gỗ tiêu tan, chỉ còn một tượng sư tử đá và một linh phù (linga) cũng bằng
đá, dưới bệ có khắc chữ Bắc Phạn (sanscrit) ghi tên Tháp thứ mười. Trong năm
1932, nhà khảo cổ Pháp Parmentier đã đi vào Đồng Tháp bằng ghe và xuồng để đọc
những chữ khắc vào đó và phát giác ra ngôi tháp..."
(tríchtrong cuốn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Muời của Nguyễn Hiến Lê)
Bến Tre
Trường hợp hình thành tên gọi Bến Tre thật đặc biệt, vì đó là sự gán ghép giữa
tiếng Khmer và tiếng Việt.Xưa
kia người Khmer gọi nơi đó là Srok Treay - srok là xứ,treay là cá. Sau người
Việt thay chỗ người Khmer đến sinh sống làm chủ chốn đó, biến chữ srok thành
Bến nhưng chữ treay không dịch là cá mà phát âm theo tiếng Khmer thành Tre. Quả
tình nơi đó không có tre mà thật nhiều tôm cá.
(theo ông Vương Hồng Sển)