Nội bộ Tòa
Bạch Ốc dưới nhãn quan của Cựu Bộ
Trưởng Quốc Phòng Mỹ Donald Rumsfeld
Lời
người dịch:
Donald
Rumsfeld (1932 - còn sống) là một chính trị gia kỳ
cựu của Mỹ, thường được xem là phe
diều hâu, [1] và
dưới đây là các điểm mốc chính trong
cuộc đời của ông:
*Từ 1954-1975: phi công và huấn luyện viên phi hành cho Hải quân Mỹ. Đắc cử dân biểu Illinois trong bốn nhiệm kỳ: 1962, 1964, 1966 và 1968.
*Tháng 11-1975 đến tháng 1-1977: Bộ Trưởng Quốc Phòng dưới thời Tổng Thống Gerald Ford.
*Từ 1977-2000: hoạt động trong thế giới kinh doanh, và đảm nhận nhiều chức vụ rất quan trọng trong lãnh vực này.
*Tháng 1-2001
đến tháng 12-2006: Bộ Trưởng
Quốc Phòng dưới thời Tổng
Thống George W. Bush.
Dưới
tựa đề Nội
bộ Tòa Bạch Ốc dưới nhãn quan của cựu
Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Donald Rumsfeld
(Inside the White House: The Rumsfeld View), tờ nhật báo Wall
Street Journal, ấn bản điện tử, tóm
lược một số nét chính của cuốn hồi ký Known
and Unknown của ông Donald Rumsfeld vào ngày 7 tháng 2,2011. Ngoài ra, Ms. Kimberly Strassel viết cho
báo Journal's Potomac Watch, đã thực hiện một buổi
phỏng vấn với ông Donald Rumsfeld về cuốn
hồi ký, vào ngày 4 tháng 2, 2011.
Dưới
đây là bản dịch của bài điểm sách và
phỏng vấn nêu trên. Nguyên
bản tiếng Anh và hình ảnh nằm sau phần tiếng
Việt.
California, Feb. 11, 2011
Phạm Văn Bân
Fan Wen Bin
范文彬
1. Nội bộ Tòa Bạch Ốc dưới
nhãn quan của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng
Mỹ Donald Rumsfeld
Sau đây là các đoạn trích - được viết nghiêng - từ cuốn sách mới của cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld, "Được Biết và Không Được Biết," do Penguin Group xuất bản.
Trong phần trích đầu tiên, được chọn
lựa bởi Gerald F. Seib, Trưởng Văn Phòng Washington
của The Wall Street Journal, Ông Rumsfeld viết rằng Cố
Vấn An Ninh Quốc Gia Condoleezza Rice đã cố gắng sử
dụng chức vụ của mình để "giảm
khoảng cách" khác biệt giữa các cố vấn chính
sách ngoại giao và Tổng Thống George W. Bush, đây là một
phần trong phong cách điều hành tổng quát mà ông không
thấy hài lòng:
Phương
thức giảm khoảng cách này có thể tạm thời
xoa dịu những viên chức cao cấp của [Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia -
National Security Council, viết tắt là NSC],
nhưng cũng dẫn đến bất mãn bởi vì các
khác biệt căn bản vẫn không được nêu ra
và không được giải quyết bởi tổng thống. Thật vậy, một hậu quả
đáng tiếc là khi các vấn đề quan trọng và gây
tranh cãi không được giải quyết một cách kịp
thời thì đôi khi dẫn đến tranh luận trên báo
chí bởi những viên chức cấp dưới không nêu
tên và bất mãn. Tôi nghi đây
là trường hợp xảy ra khi Tổng Thống
được yêu cầu làm một quyết định rõ
ràng. Nếu lệnh được
đưa ra từ Tổng Thống thì hầu hết các
viên chức của bộ sẽ công nhận và thực hiện,
ngay cả nếu lệnh đó không được họ
đề nghị.
Tôi
có những vấn đề khác đối với sự
quản trị trong thủ tục NSC của Bà Rice. Những thay đổi thường
xuyên vào giờ chót về giờ họp và về chủ
đề đã gây khó khăn cho những người tham dự
buổi họp để chuẩn bị, và thậm chí còn
khó khăn hơn cho những phòng, ban NSC để quản
trị, để sắp xếp lại chương trình
nghị sự của họ. Các nhân viên NSC thường bê trễ trong việc gửi
giấy tờ sắp đặt các vấn đề để
thảo luận cho người tham dự buổi họp. Lúc kết thúc các buổi họp của
NSC, khi quyết định đã được làm thì trên
lý thuyết, các nhân viên NSC được xem như phải
viết một bản tóm tắt kết luận. Khi tôi thấy
các bản tóm tắt thì chúng thường sơ sài và không nhất
thiết phù hợp với những hồi tưởng của
tôi. Kể từ khi xảy ra
vụ bê bối Iran-Contra của chính quyền Reagan, nhân viên
NSC nhạy cảm đối với các văn bản và hồ
sơ được ghi chép khiến một tổng thống
hay các cố vấn của ông có thể bị liên lụy. Bà Rice và các bạn đồng sự
dường như quan tâm đến việc tránh né những
hồ sơ chi tiết mà người khác có thể khai
thác. Điều này xảy ra
khiến phải hy sinh việc cho phép các cơ quan điều
hành có liên quan để biết chính xác những gì đã
được thảo luận và quyết định tại
các buổi họp NSC. Đôi
khi, những người tham dự rời buổi họp
với những quan điểm khác nhau về những gì
đã được quyết định và những bước
tiếp theo nên làm ra sao; do hậu quả đó, đã không cản
trở các viên chức CIA, Ngoại Giao, hay Quốc Phòng khi họ
trở về văn phòng của họ và và làm những gì
mà họ nghĩ là tốt nhất.
Trong
một công văn Tháng 8-2002 gửi tới Bà Rice, tôi nêu lên vấn
đề thiếu nghị quyết này. Tôi viết, "Đôi khi xảy
ra một việc nào đó được cho rằng
"đã được quyết định" bởi
vì nó không khêu ra phản đối. Đây không phải là một biện pháp tốt. Không điều nào được
xem là đã được quyết định trừ khi
chúng ta đồng ý một cách minh bạch với nghị quyết
đó." Bà Rice bắt đầu
đặt một ghi chú ở cuối những dự thảo
công văn nghị quyết: "Nếu không có phản
đối được nêu ra trước một kỳ
hạn tối hậu thì công văn này sẽ được
xem là chấp thuận bởi các viên chức cao cấp." Điều này cũng không thực
tế. [Ngoại Trưởng
Colin] Powell và tôi thường xuyên công du. Tôi không muốn có người khác
giả sử rằng tôi đồng ý với một điều
gì đó, đơn giản chỉ vì tôi không bắt kịp
kỳ hạn tối hậu được tùy ý đặt
ra."
Ông Rumsfeld tiết lộ rằng,
trong diễn biến đi đến chiến tranh tại
Iraq, ông Bush không bao giờ hỏi bộ trưởng quốc
phòng rằng bộ trưởng nghĩ cuộc xâm lăng
là một ý tưởng thỏa đáng hay không.
Trong
khi Tổng Thống Bush và tôi đã có nhiều buổi thảo
luận về việc chuẩn bị chiến tranh, tôi
không nhớ có bao giờ ông hỏi tôi rằng việc tiến
hành chiến tranh với Iraq là một quyết định
đúng hay không. Tổng Thống
là người chịu trách nhiệm trong quyết định
rất khó khăn để ủy nhiệm các lực
lượng Mỹ. Tôi không suy
diễn về quá trình suy nghĩ đã đưa ông đến
quyết định tối hậu và cần thiết
được đơn lẻ của ông. Tất cả chúng tôi đều
nghe cùng những sự tình giống nhau từ buổi họp
này qua buổi họp nọ, và từ buổi họp Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia đó qua buổi họp kia,
suy đi tính lại những gì chúng tôi biết về chế
độ Iraq và những gì mà giới tình báo nghĩ về
khả năng và ý định của Iraq.
Mặc
dù có khác biệt giữa chúng tôi, nhưng không có khác biệt
ở thực chất hay ở tầm mức chiến
lược về việc cho phép hay không cho phép chế
độ Saddam Hussein tiếp tục nắm quyền. Trong các cuộc họp NSC mà tôi có mặt,
không một người nào tuyên bố hay bóng gió nói rằng
họ phản đối, hoặc ngay cả lưỡng lự,
về quyết định của Tổng Thống. Tôi tán đồng điều mà
TT. Bush giả sử, tôi cũng vậy, rằng mỗi một
người chúng ta đã đi đến cùng một kết
luận.
Khi
việc chiếm đóng Iraq trở nên tồi tệ, có những
chuyện nổi lên rằng Bà Rice sẽ lãnh nhiệm vụ
quản trị Iraq trong thời hậu chiến và giám sát L. Paul Bremer, Trưởng Liên Minh
Quản Trị Hành Chính Lâm Thời (Coalition
Provisional Authority), thay vì Ngũ Giác Đài:
Những tin tức về kế hoạch quản trị mới của Bà Rice cũng lặp đi lặp lại một tin đồn vô căn cứ [2] nhưng được tin một cách rộng rãi rằng Bộ Ngoại Giao đã bị cản trở trong kế hoạch hậu chiến. Đó là những câu chuyện mang dấu vết rõ ràng của các phụ tá hàng đầu của Powell.
Tôi có khát vọng cho Bộ Ngoại Giao chấp nhận nhiều
trách nhiệm hơn tại Iraq và sẽ là Bộ cuối
cùng để kết thúc. Khi
chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại Giao gửi chuyên viên đến
Iraq thì họ không đáp ứng được phần hạn
của họ. Khi chúng tôi yêu cầu
hỗ trợ cho các nhóm tái thiết tại Afghanistan và Iraq,
họ khó nhọc để tham gia vào. Khi Bộ Ngoại Giao phụ trách
huấn luyện cảnh sát Iraq, họ không hoàn thành nhiệm
vụ đó. Tướng
Powell tham dự các buổi họp Hội Đồng An Ninh
Quốc Gia và cao cấp về Iraq và được chia sẻ
tin tức trong mỗi một quyết định trọng
đại. Điều bí ẩn
là tại sao các viên chức Bộ Ngoại Giao cảm thấy
họ đã không được tham gia trong công việc. Tôi nghi rằng hoặc là Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia hoặc là Bộ Ngoại Giao
thực sự muốn chịu trách nhiệm về chính sách
Iraq của chính quyền Bush, và tôi hoàn toàn nhận thức rằng
Bà Rice và NSC đã không thể trông nom chính sách đó.
Ngày
6 tháng 10, 2003, tôi gửi một công văn đến Tổng
Thống với bản sao đến Phó Tổng Thống
Cheney và [Trưởng Ban Tham Mưu Tòa Bạch Ốc - White
House Chief of Staff] Andy
Card. Tôi viết, "Trong báo
cáo ngày Thứ Hai, Condi thực sự thông báo rằng Tổng
Thống quan tâm về các nỗ lực ổn định
Iraq trong thời hậu chiến và rằng, do đó, Tổng
Thống yêu cầu Condi Rice và Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia đảm nhận trách nhiệm về Iraq trong thời
hậu chiến." Tôi đề
nghị rằng mối tương quan báo cáo của Bremer
phải được chính thức chuyển từ Bộ
Quốc Phòng qua NSC hoặc Bộ Ngoại Giao.
Tôi cũng lưu ý thêm rằng tôi đã nói với ông Bremer trong nhiều tháng trước đó rằng tôi sẽ vui thích hơn nếu ông về làm cho Tổng Thống, Bà Rice, hay Tướng Powell. Tôi viết, "Ông Bremer hoàn toàn nhận thức được sự sẵn lòng của tôi để cho mối tương quan làm việc này được điều chỉnh, theo như hoàn cảnh đã chín muồi hiện nay." Không ai chấp thuận đề nghị của tôi. Trong thực tế, ngay sau đó, Bà Rice đảo ngược lại chính mình, hiển nhiên là do yêu cầu của tổng thống, và thông báo với báo chí rằng, trái với thông báo trước đây của Bà, không có thay đổi nào trong chính sách Iraq của chính quyền Bush.
Một tuần sau, sau buổi họp cao cấp vào ngày 14
tháng 10,2003, Bà Rice yêu cầu gặp riêng tôi. Bà xin lỗi về sự ưu
phiền trong vụ Iraq và nói rằng Bà đang nỗ lực
sửa sai việc này.
Tôi
nói xen vào, "Bà thất bại rồi. Lẽ ra Bà đã có thể nói
điều gì đó trong buổi họp NSC ngay trước
mặt tổng thống và các viên chức cao cấp."
Bà trả lời, "Don, ông
đã gây lỗi lầm trong sự nghiệp rất lâu dài
của ông."
"Đúng, nhưng tôi đã
cố gắng xóa các lỗi lầm này."
Sau khi bộc lộ các vụ
ngược đãi (sỉ nhục) tại căn cứ
giam giữ Abu Ghraib của quân đội, ông Rumsfeld viết
rằng ông đề nghị xin từ chức vì việc
đó:
Tuần lễ vừa qua quá
sức đau đớn bởi vì vụ bê bối gây
thiệt hại rất nhiều cho lực lượng võ
trang và đất nước chúng ta. Thông thường tôi hăng hái khi
bị áp lực, nhưng bây giờ tôi không còn hăng
nữa. Abu Ghraib đe dọa
tiêu hủy Bộ Quốc Phòng, phá nát công tác xuất sắc
mà hàng ngàn người thực hiện mỗi ngày. Ủy Ban Quốc Gia Đảng
Dân Chủ (Democratic National Committee) đã sử dụng Abu Ghraib để gây quỹ cho các
cuộc vận động của họ.
Ngày
Chúa Nhật đó - Ngày Lễ Mẫu Thân - các con tôi gọi
điện thoại và nói rằng chúng ủng hộ tôi bất
kể tôi quyết định như thế nào. Phó Tổng Thống Cheney nói rằng
"với Iraq trong một điều kiện khó khăn
như thế, tổng thống muốn tôi ở Bộ Quốc
Phòng. Ông thúc giục qua một
cú gọi điện thoại: "Ông phải ở lại."
Sau
đó tôi nhớ lại một đoạn của hơn một
nửa thế kỷ trước. Tháng 4,1952, khi tôi đang học môn khoa học hải
quân ở đại học, chiếc tàu khu trục Hải
quân Mỹ USS Hobson tấn công hàng không mẫu hạm USS Wasp
trong đêm tối. Chiếc Hobson chìm xuống đáy biển
Đại Tây Dương với 176 người trên
đó. Sĩ quan chỉ huy,
Trung Tướng WJ Tierney chết chìm theo tàu. Một ủy ban điều tra của
Hải quân cuối cùng kết luận rằng Tierney chịu
trách nhiệm về vụ xung đột đó. Không phải là điều dễ
dàng để đòi hỏi phẩm chất trách nhiệm
đối với một sĩ quan chỉ huy đã qua
đời. Tuy nhiên, có một
truyền thống trên biển và trong Hải quân của
chúng tôi là có thẩm quyền thì phải có trách nhiệm và
phẩm chất trách nhiệm. Đáng tiếc là truyền thống đáng kính của
Hải quân dường như không được nắm bắt
ở cùng một mức độ trong các dịch vụ
quân sự khác. Trường hợp
của chiếc Hobson nói lên rất nhiều về mối
tương quan lãnh đạo - và hậu quả của nó.
Vào ngày 10 tháng 5,
2004, Tổng Thống Bush đến
Ngũ Giác Đài để họp ngắn gọn về
Iraq. Cuối buổi họp,
tôi yêu cầu Tổng Thống cho tôi gặp riêng có
được hay không. Khi
chúng tôi ngồi vào bàn tròn trong văn phòng nhìn ra Lối Vào Mé
Sông của Ngũ Giác Đài, tôi đưa cho ông một bức
thư từ chức thứ hai. Thư viết, "Bằng lá thư này tôi xin từ
chức làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Tôi đã kết luận rằng
thiệt hại, từ các hành vi ngược đãi đã xảy
ra dưới sự giám sát của tôi, bởi những cá
nhân mà cuối cùng tôi phải chịu trách nhiệm về
hành vi của họ, có thể được đáp ứng
tốt nhất bằng sự từ chức của
tôi." Khi đọc lá
thư của tôi, ông Bush yên lặng.
Tôi nài nỉ, "Thưa Tổng Thống, Bộ Quốc Phòng sẽ khá hơn nếu tôi từ chức."
Ông trả lời, "Điều đó không đúng."
và vất lá thư trở lại cho tôi.
Tôi nói với Tổng Thống
rằng tâm trí của tôi đã được khẳng
định rồi. Tuy nhiên,
ông khăng khăng rằng ông muốn có thời gian để
suy nghĩ và để tham khảo với những người
khác. Ngày hôm sau, Phó Tổng Thống
Cheney đến Ngũ Giác Đài. Ông nói, "Don, tuần lễ này 35 năm trước
đây, tôi đã đến làm việc cho ông, và về việc
này, ông sai rồi."
Cuối
cùng, ông Bush từ chối chấp thuận đơn xin
từ chức của tôi.
2. Một mảnh lịch sử của Rumsfeld
Trong buổi phỏng
vấn ngày 4 tháng 2, 2011, Cựu
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng giải thích các mối
hận thù ở Washington [3]
gây tổn hại cho chính sách Iraq như thế nào, và
tại sao lượn sóng này lại kém chí tử hơn là
bạn nghĩ.
"Tôi đã đọc các sách của những người khác về những điều tôi đã tham gia vào ... và tôi nghĩ rằng, "Trời ơi, đó không phải là quan điểm của tôi." Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld mỉm cười trong buổi phỏng vấn vào thứ Sáu tuần trước. "Tôi nhớ tôi nói chuyện với [cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao] George Shultz và ông nói, "Don, đó là cách thức sự việc xảy ra. Mỗi người đều có một mảnh lịch sử của họ và ngày nào đó, ông cần viết mảnh của ông để nó thành một phần trong hồ sơ."
Getty Images
Lịch sử, hãy hội
ngộ với quan điểm của ông Rumsfeld. Ngày hôm nay, với sự phát hành cuốn
"Được Biết
và Không Được Biết" - cuốn hồi
ký của ông lão 78 tuổi trong hai nhiệm kỳ làm Bộ
Trưởng Quốc Phòng dưới thời George W. Bush và
Gerald Ford, những năm trong chính quyền Nixon và ba nhiệm
kỳ dân biểu Illinois - "Rummy" cung hiến mảnh
lịch sử của ông. Xứng
đáng là một người đã tốn nhiều thập
niên gây tranh luận ở Washington, cuốn hồi ký xã hội
của ông viết thẳng thắn và hầu chắc khêu dậy
cảm hứng la hét cho một số người.
Các người thường
chỉ trích Rumsfeld (kể cả một số trong vòng gia
đình Bush) đang gấp rút phân loại cuốn hồi ký
như là một bản tường thuật dùng để
"phục thù," nhưng đó là một phán xét có thể
tiên liệu được (và chán ngắt). Trung tâm điểm của cuốn
sách của ông Rumsfeld là một chỉ trích quan trọng về
chính quyền Bush đã bị hầu hết bỏ quên trong
các cuộc tranh luận về Iraq. Cho đến nay, thông qua hoài nghi của
những đầu óc chiến lược và bớt quan
liêu thì phần tường thuật nổi bật là một
tổng thống cao bồi và nhóm người tân bảo thủ
chủ nghĩa của ông tiến hành chiến tranh mà không
chuẩn bị thỏa đáng và xử sự một cách
khinh suất.
Những gì ông Rumsfeld cung cấp
là một bảng liệt kê sự kiện vượt lên
trên mức tin cậy bình thường bởi vì ông là
người quy trách nhiệm của một số cá nhân
đối với sự thất bại trong công tác. Ông mô tả
một Tòa Bạch Ốc với các vấn đề nội
bộ, trong đó trung tâm là một Hội Đồng An
Ninh Quốc Gia được giám sát bởi Condoleezza Rice trong
nhiệm kỳ đầu của ông Bush. Ông Rumsfeld lập luận rằng
phong cách quản trị của Bà Rice dẫn đến sự
do dự bất quyết, từ đó dẫn đến
thiếu sót một kế hoạch chặt chẽ trong thời
hậu xâm chiếm, đến sự chuyển giao quyền
lực bê trễ cho Iraq, và đến một cuộc nổi
dậy căm hờn. Nếu
không có gì khác, phong cách này cho sử gia một giá trị nào
đó để suy gẫm khi họ làm một lượng
giá trung thực cho những năm của Tổng Thống
Bush.
Ông Rumsfeld nói với tôi rằng
ông xem cuốn sách 815 trang của ông như là một
"đóng góp vào hồ sơ lịch sử," không phải
một hồi ký để tiết lộ các tin tức bê bối
hay thân mật [4] thoáng
nhẹ của giới Washington. Trong hơn 40 năm phục vụ
công chúng, ông giữ hồ sơ đầy đủ về
các lá phiếu của ông, các buổi họp với các Tổng
Thống, và hơn 20,000 công văn (được biết
dưới tên "hoa tuyết") mà ông bối rối ở
Ngũ Giác Đài trong nhiệm kỳ thứ hai làm Bộ
Trưởng Quốc Phòng. Ông
Rumsfeld sử dụng chúng như là nguồn tài liệu chủ
yếu, trong đó liệt kê hơn 1,300 ghi chú. Ông cũng điện tử hóa
chúng để độc giả và sử gia có thể tham
khảo bằng chứng nhận ngay từ nguồn gốc
đầu tiên tại: www.rumsfeld.com.
Và đúng vậy, ông nhất
tâm có ý định sử dụng tài liệu này để
thay đổi quan điểm lịch sử của các
tranh luận trong quá khứ, trong đó có một số tranh
luận khá xa xưa. Một thí
dụ: Cuốn sách ghi chép một "huyền thoại
đặc biệt khăng khăng không chịu xin lỗi
...": cáo buộc rằng trong chức vụ Trưởng
Ban Tham Mưu Tòa Bạch Ốc (White
House chief of staff),
ông Rumsfeld thúc đẩy Tổng
Thống Ford bổ nhiệm George H.W. Bush làm giám đốc
CIA, để khu trừ một đối thủ. Ông Rumsfeld trích dẫn công văn mà ông
cung cấp cho tổng thống - "thể theo yêu cầu
[của Ford]"- lượng giá thực lực của các
ứng cử viên CIA. Trong thực
tế, công văn cho thấy ông đã đặt ông Bush cha
"dưới tiêu chuẩn" - nghĩa là không phải
là một "tiến cử ưu tiên nhất" (Ui da!).
Ông Rumsfeld dành riêng một
chương đầu để ngẫm nghĩ về mục
đích của Hội Đồng An Ninh Quốc gia (National Security
Council - NSC), kèm theo phán xét của
ông là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Condoleezza Rice đã công
tác kém cỏi trong việc loan báo và việc tranh luận của
những bất đồng có thật giữa Bộ Ngoại
Giao và Bộ Quốc Phòng. Ông Rumsfeld
viết, "Các đối chọi giữa Bộ Ngoại
Giao và Bộ Quốc Phòng không có gì mới, nhưng "đặc
điểm đáng chú ý nhất" về mặt quản
trị của Bà Rice là sự hết lòng cam kết, bất
cứ lúc nào có thể được, 'giảm khoảng
cách' khác biệt giữa các
cơ quan, thay vì mang những khác biệt đó cho Tổng
Thống quyết định."
"Condi Rice là một người rất hoàn hảo," ông nói trong buổi phỏng vấn của chúng tôi, và "Bà có một nền tảng học thuật. Pha trộn sự việc và triển hoãn sự việc thì không sao trong thế giới học thuật. Bà phát triển một mối tương quan rất mạnh với tổng thống, đó là điều tối quan trọng. Nhưng một trong những khía cạnh tiêu cực của phong cách mà sự việc được điều hành - và tôi sẽ không dùng chữ 'được điều hành gây nguy hại' - là sự việc đã bị triển hoãn, và tổng thống không được cung cấp, trong một cách dứt khoát, các chọn lựa mà ông có thể chọn lựa trong số đó."
Cuốn hồi ký kể lại các trường hợp
đáng chú ý khi mâu thuẫn nêu trên diễn ra, nhưng không có
trường hợp nào gây nhiều hậu quả bằng
kế hoạch hỗn loạn cho Iraq trong thời hậu
chiến. Trước đó, Bộ Quốc Phòng tiếp tục
con đường "làm những gì chúng ta đã làm ở
Afghanistan" - nơi mà một đại hội đồng
[5]
bộ lạc đã nhanh chóng chọn lựa [6]
Hamid Karzai lãnh đạo. "Mục
đích là chuyển động một cách nhanh chóng để
có một khuôn mặt Iraq cho mối tương quan lãnh
đạo tại Iraq, do phản đối sự chiếm
đóng của ngoại quốc." Sự nhượng bộ trước
đó của ông Rumsfeld từ các buổi họp NSC là "Tổng
Thống đã đồng ý."
Tuy nhiên, Colin Powell của Bộ
Ngoại Giao cương quyết phản đối. Đó là vì nghi ngờ việc cho
phép các người Iraq lưu vong giúp cầm quyền, nói rằng
họ sẽ phá hoại "tính hợp pháp." Đó cũng vì không tin tưởng
rằng một sự liên hiệp phân chia quyền lực Mỹ-Iraq
sẽ tác động hữu hiệu. Đó là những khác biệt rõ ràng
và có thực, nhưng theo lời của ông Rumsfeld thì bà Rice đã
để cho bế tắc kéo dài.
Kết quả là một thời
kỳ nhiếp chính lâu dài và tổn thương, với Paul
Bremer làm Trưởng
Liên Minh Quản Trị Hành
Chính Lâm Thời (Coalition
Provisional Authority)
[7]-
sự kiện mà ông Rumsfeld tin rằng đã
giúp khích lệ sự nổi dậy ban đầu ở Iraq.
Ông Bremer, người đã thiết
lập hàng quán tại một trong những cung điện
sang trọng của Saddam, tiếp tục triển hoãn việc
thành lập một chính phủ chuyển tiếp Iraq. Thay vào đó, ông bổ nhiệm một
"hội đồng chính quyền" của người
Iraq nhưng khước từ giao phó bất cứ trách nhiệm
nào cho họ. Kết quả: bê
trễ trong các cuộc bầu cử và trong việc xây dựng
các tổ chức trong thời hậu Saddam.
"Tốt hơn hết
là bạn luôn luôn có tổng thống nhìn vào mỗi chọn
lựa, cả thuận lẫn nghịch, và làm quyết
định trong số đó, hơn là cố gắng để
hợp nhất các chọn lựa," ông Rumsfeld nói, nhất
là khi ở vị trí bị "mâu thuẫn ở một mức
độ nhất định."
Ông
Rumsfeld cũng bắt lỗi văn hóa Washington ngày nay [8],
với một quốc hội quá hung hãn và có nhiều "hội tranh tụng"
hơn. Ông Rumsfeld nhớ lại
trong những năm Washington trước đó của ông, Henry
Kissinger viết biên bản rõ ràng, phác họa "những điểm
thuận và nghịch" cho tổng thống. Nhưng trong NSC thời nay, có một
sự miễn cưỡng để viết xuống các sự
việc - e rằng chúng bị mang vào một cuộc điều
tra.
Sự thiếu sót của
việc làm quyết định rõ ràng cũng dẫn đến
thẩm quyền mơ hồ, mà Bộ Ngoại Giao của
ông Powell sử dụng để dành ưu thế trong những
trận chiến dành quyền lực [9].
Bà Rice cũng sử dụng kiểu
này, vào cuối năm 2003, để dành quyền kiểm
soát cá nhân nhiều hơn đối với các hoạt
động trong thời hậu chiến thông qua "Nhóm Ổn
Định Iraq" của mình - một công tác mà ông Rumsfeld
viết rằng bà Rice và ban tham mưu của Bà không có "hứng
thú hoặc khả năng."
Một cách chính thức thì
ông Bremer báo cáo (trực thuộc) cho ông Rumsfeld. Ông Rumsfeld
nói, "Nhưng ông Bremer tự xem mình là người của
tổng thống, có nguồn gốc trong Bộ Ngoại Giao
và mối tương quan với Condi Rice." Do đó, ông Bremer chọn lựa
phương hướng mà ông ưa thích, điều mà ông
Rumsfeld mô tả là tương đương với việc
có "bốn hoặc tám bàn tay trên tay lái." [10]
Các vấn đề tối quan
trọng bị lần lữa - như Mỹ nên hỗ trợ
ai, ai nên nắm quyền, làm thế nào để nhanh chóng
chuyển giao quyền lực. Tôi hỏi ông Rumsfeld tại sao ông
không đơn giản sa thải ông Bremer. Ông nói rằng ông không thể. Ông Bremer là "một đặc sứ
của tổng thống" và phục vụ trong sự
vui thích của ông Bush.
Ông Rumsfeld hơi che đỡ
cho tổng thống trong cuốn sách. Ông Rumsfeld nhấn mạnh, "Khi các
lựa chọn được mang đến trình tổng
thống thì ông hoàn toàn sẵn sàng để làm quyết
định." Sau đó, một
lần nữa, cuốn sách nói rõ rằng Ông Bush đã nhận
thức được những xung đột tồi tệ
giữa Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng. Và ông Bush không
tránh né trách nhiệm trong vị trí là người lãnh đạo
thời chiến và là lãnh đạo của bà Rice.
Ông Rumsfeld ít thẳng thừng
về những sai lầm của riêng Bộ mình, mặc dù
ông rụt rè đề cập. Một câu hỏi là tại sao phải
mất quá lâu để thay thế các tướng George
Casey và John Abizaid, là hai người theo dõi sự nổi dậy
Iraq tăng trưởng. Cuốn
hồi ký của ông Rumsfeld ghi rằng không ai trong NSC hoặc
Hội Đồng Liên Quân Tham Mưu Trưởng (Joint Chiefs) đề
nghị họ phải bị thay thế vào mùa Thu năm
2006, tức là những tháng cuối khi ông Rumsfeld còn tại chức. Tuy nhiên, ông thừa nhận có một
chuyến viếng thăm vào tháng Chín, 2006 của vị tướng
về hưu Jack Keane, một kiến trúc sư then chốt
của đợt sóng, và là người đã khuyến cáo
rằng hai vị tướng này không "ý thức một
cách đầy đủ mức độ nghiêm trọng của
tình huống." Khi tôi hỏi
ông Rumsfeld có phải vì họ bị bỏ lại ở Iraq
quá lâu không, ông thừa nhận: "Nhìn lại, bà có thể
giải thích như vậy."
Ông không muốn thừa nhận
rằng ông chậm trễ giải quyết cuộc nổi
dậy tại Iraq. Ông nói,
đó không bao giờ là một cuộc nổi dậy,
nhưng đúng hơn nó "tiến triển dưới
nhiều hình dạng khác nhau." Làn sóng đầu tiên, ông nói, là
"Saddam và đảng Baathists cố gắng để lấy
lại quyền lực" được yểm trợ
bởi những "tội phạm" mà Saddam phóng thích khỏi
ngục tù. Sau đó là làn sóng
khủng bố - "được tạo tiện lợi
thông qua Damascus"- đến để chiến đấu
chống Mỹ. Al Qaeda gia nhập
cuộc xung đột, cũng như có một cuộc nổi
dậy của người Shiite dưới sự lãnh
đạo của Moqtada al-Sadr và quân đội Mahdi của
ông. "Chúng tôi không thể thua
trận ở Iraq, nhưng chúng tôi không thể đánh bại
họ bằng quân sự," ông nói. "Bởi vì không có ai để
đánh bại. Đó là một
tình huống không đối xứng hoàn toàn khác thường."
Do đó, ông Rumsfeld có một
quan điểm không chính thống về tầm quan trọng
của đợt sóng của Tổng Thống Bush, bắt
đầu có hiệu lực vào đầu năm 2007. Ông lý luận rằng vào năm 2006,
trong thực tế, sự tình đang được cải
thiện. Phong trào Tỉnh Thức
Anbar [11]
- mà ông Rumsfeld công nhận là bắt đầu từ vào mùa Thu
năm 2006 - "đã thuyết phục nhiều người
Sunni rằng họ không muốn bị liên kết với al
Qaeda," và "chính phủ Iraq đã phát triển năng lực
để đương đầu với những nhóm cực
đoan" với sự trợ giúp của các lực
lượng an ninh Iraq nay đã trở nên "rất có khả
năng."
Ông lý luận rằng do
đó, thế lực của đợt sóng Tổng Thống
Bush đạt được tác động "tâm lý"
như bất cứ điều gì khác. "Quyết định
của tổng thống đốc thúc các quan điểm tại
Iraq, cho biết: "Hãy nhìn xem, nếu bạn nghĩ Iraq sẽ
rơi vào tay phiến quân, bạn lầm rồi.'" Ông Rumsfeld lý luận rằng sự
kiện của lời tuyên bố rất hệ trọng,
tương tự như sự gia tăng quân số "một
cách chiến thuật hoặc chiến lược."
Mặc dù bị nhiều người xem như là "mũi nhọn xung kích" của "nghị trình tự do" của ông Bush, ông Rumsfeld cũng bày tỏ sự nghi ngại về việc "kiến thiết quốc gia." Ông không đồng ý với "quy tắc Pottery Barn" [12]- được gán ghép cho ông Powell - rằng "nếu bạn đập bể nó, bạn phải sở hữu nó," bởi vì ông lý luận là Iraq đã bị đập vỡ dưới thời Saddam. Trong khi ông thừa nhận rằng Mỹ có nghĩa vụ an ninh đối với Iraq, nhưng ông bày tỏ sự khó chịu đối với những lời hứa rộng rãi của Tổng Thống Bush về dân chủ, và ông lo lắng rằng nhiều quốc gia quá thường xuyên tỏ ra ỷ lại vào Mỹ.
Đây là một phần của câu trả lời của ông
khi tôi hỏi những gì đã sai lầm (tái diễn) tại
Afghanistan. Ông lưu ý rằng "những
tín đồ Hồi giáo" trung kiên không chỉ đơn
giản "biến mất." "Chúng tôi đã cho họ
một cơ hội, một cơ hội tốt, để
thiết kế một quốc gia có thể có một hình thức
an ninh mà Taliban đã không cho phép. Dân chúng Afghanistan phải quyết định."
Những nhà phê bình về ông
Rumsfeld thấy cay đắng vì cuốn hồi ký của
ông đã không đi theo con đường thương mại
hiển nhiên, cung ứng một lời xin lỗi trân trọng
về vai trò của ông trong các cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, độc giả có thể
cám ơn khi tự thấy mình đang sở hữu một
cuốn hồi ký nghiêm chỉnh, xứng đáng lưu giữ
với truyền thống Washington xưa của Dean Acheson
hay Henry Kissinger. Các sử gia
cũng có thể làm như vậy.
Hết
Inside
the White House: The Rumsfeld View
Following are excerpts from former Defense Secretary Donald Rumsfeld's new book, "Known and Unknown," published by Penguin Group.
In the first extract, selected by The Wall Street
Journal's Washington Bureau Chief Gerald F. Seib, Mr. Rumsfeld writes that
National Security Adviser Condoleezza Rice attempted to use her post to
"bridge" differences among foreign-policy advisers to President
George W. Bush, part of an overall operating style he found unsatisfying:
Mr.
Rumsfeld was elected to the U.S. House of Representatives for Illinois in 1962.
This
bridging approach could temporarily mollify the [National Security Council]
principals, but it also led to discontent, since fundamental differences
remained unaddressed and unresolved by the president. Indeed, an unfortunate
consequence was that when important and controversial issues did not get
resolved in a timely manner, they sometimes ended up being argued in the press
by unnamed, unhappy lower-level officials. I doubt this would have been the
case had the President been asked to make a clear-cut decision. If given an
order from the President, most department officials would have then saluted and
carried it out, even if it had not been their recommendation.
I had other issues with Rice's management of the NSC process. Often meetings were not well organized. Frequent last-minute changes to the times of meetings and to the subject matter made it difficult for the participants to prepare, and even more difficult, with departments of their own to manage, to rearrange their full schedules. The NSC staff often was late in sending participants papers for meetings that set out the issues to be discussed. At the conclusion of NSC meetings when decisions were taken, members of the NSC staff were theoretically supposed to write a summary of conclusions. When I saw them, they were often sketchy and didn't always fit with my recollections. Ever since the Iran-Contra scandal of the Reagan administration, NSC staffs have been sensitive to written notes and records that could implicate a president or his advisers. Rice and her colleagues seemed concerned about avoiding detailed records that others might exploit. This came at the expense of enabling the relevant executive agencies to know precisely what had been discussed and decided at the NSC meetings. Attendees from time to time left meetings with differing views of what was decided and what the next steps should be, which freed CIA, State, or Defense officials to go back and do what they thought best.
In one August 2002 memo to Rice, I raised this lack of resolution. "It sometimes happens that a matter mentioned at a meeting is said to have been 'decided' because it elicited no objection," I wrote. "That is not a good practice. Nothing should be deemed decided unless we expressly agree to decide it." Rice started putting a note at the bottom of draft decision memos: "If no objections are raised by a specific deadline, the memo will be considered approved by the principals." That, too, was impractical. [Secretary of State Colin] Powell and I were frequently traveling. I did not want to have others assume I agreed with something simply because I missed an arbitrary deadline.
Former
Defense Secretary Donald Rumsfeld, right, with President George W. Bush at the
October 2006 dedication ceremony for the U.S. Air Force Memorial in Arlington,
Va.
Mr.
Rumsfeld discloses that, in the run-up to the war in Iraq, Mr. Bush never asked
his defense chief whether he thought the invasion a good idea:
While President Bush and I had many discussions
about the war preparations, I do not recall his ever asking me if I thought
going to war with Iraq was the right decision. The President was the one charged
with the tough choice to commit U.S. forces. I did not speculate on the thought
process that brought him to his ultimate, necessarily lonely decision. We were
all hearing the same things in briefing after briefing, and one National
Security Council meeting after another, mulling over what we knew of the Iraqi
regime and what the intelligence community believed about its capabilities and
intentions.
Though
there were differences among us, they were not differences at the substantive
or strategic levels of whether or not to allow Saddam Hussein's regime to
remain in power. Not one person in NSC meetings at which I was present stated
or hinted that they were opposed to, or even hesitant, about the president's
decision. I took it that Bush assumed, as I did, that each of us had reached
the same conclusion.
As the occupation of Iraq turned ugly, stories
emerged that Ms. Rice was going to take over management of postwar Iraq and
oversight of Coalition Provisional Authority chief L. Paul Bremer from the Pentagon
:
The news stories about Rice's new management plan
also repeated the widely believed canard that the State Department had been cut
out of postwar planning. The stories bore the unmistakable fingerprints of
Powell's top aides.
I had been eager for the State Department to accept
more responsibility in Iraq and would have been the last person to shut them
out. When we asked the State Department to send experts to Iraq, they failed to
meet their quotas. When we asked for support for reconstruction teams in
Afghanistan and Iraq, they struggled to fill them. When the State Department
was in charge of training the Iraqi police, it did not get the job done. Powell
was in National Security Council meetings and principals meetings on Iraq and
shared in every major decision. It was a mystery as to what these State
Department officials felt they were not involved in. I was skeptical that
either the National Security Council or the State Department truly wanted to be
accountable for the administration's Iraq policy, and I was all too aware that
Rice and the NSC were not able to manage it.
On Oct. 6, 2003, I sent a memo to the president with
copies to Vice President Cheney and [White House Chief of Staff] Andy Card.
"In Monday's paper," I wrote, "Condi, in effect, announced that
the President is concerned about the post-war Iraq stabilization efforts and
that, as a result, he has asked Condi Rice and the National Security Council to
assume responsibility for post-war Iraq." I recommended that Bremer's reporting
relationship be formally moved from Defense to the NSC or state.
I further noted that I had told Bremer months earlier that I would prefer to have him report to the president, Rice, or Powell. "[H]e is fully aware of my willingness to have this reporting relationship adjusted now that the circumstances there have matured," I wrote. No one took up my offer. In fact, Rice shortly thereafter reversed herself, apparently at the president's insistence, and informed the press that, contrary to her previous announcement, nothing about the administration's Iraq policy had changed.
One week later, after a principals meeting on Oct.
14, 2003, Rice asked to see me privately. She apologized for the flap over Iraq
and said that she was doing everything to correct it.
I interjected, "You're failing. You could have
said something in the NSC meeting in front of the president and the
principals."
"Don, you've made mistakes in your long
career," she replied.
"Yes, but I've tried to clean them up."
Former Defense
Secretary Donald Rumsfeld meets soldiers at the Abu Ghraib prison on the
outskirts of Baghdad in May 2004. In his new memoir, Rumsfeld discloses that he
attempted to resign after the scandal over the abuse of prisoners there.
After the disclosure of abuses at the military's Abu
Ghraib detention facility, Mr. Rumsfeld writes that he offered his resignation
in response:
The previous week had been excruciating because the
scandal was so damaging to our armed forces and the country. I generally
thrived under pressure, but I wasn't thriving now. Abu Ghraib was threatening
to consume the Defense Department, eclipsing the fine work thousands of
service-men and -women did every day. The Democratic National Committee was
already using Abu Ghraib to raise funds for its campaigns.
That Sunday—Mother's Day—our children called and
told me they were with me no matter what I decided. Vice President Cheney said
that with Iraq in such a difficult condition, the president wanted me at the
Defense Department. "You have to stay," he urged in a phone call.
I was later reminded of an episode more than a half
century earlier. In April 1952, when I was studying naval science in college,
the U.S. Navy destroyer USS Hobson struck the aircraft carrier USS Wasp in the
dark of night. The Hobson sank to the Atlantic seafloor with 176 men aboard.
The commanding officer, Lieutenant Commander W. J. Tierney, went down with the
vessel. A Navy board of inquiry ultimately concluded that Tierney was to be
held responsible for the incident. It could not have been easy to demand
accountability from a commanding officer who lost his life. Nevertheless, there
is a tradition on the sea and in our Navy that with authority comes
responsibility and accountability. The Navy's venerable tradition regrettably seemed
not to have taken hold to the same extent in the other military services. The
case of the Hobson said a lot about leadership—and its consequences.
On May 10, 2004, President Bush came to the Pentagon
for a briefing on Iraq. At the end of the briefing, I asked the President if I
could see him alone. As we sat at the round table in my office overlooking the
Pentagon's River Entrance, I handed him a second letter of resignation.
"By this letter I am resigning as secretary of defense," it read.
"I have concluded that the damage from the acts of abuse that happened on
my watch, by individuals for whose conduct I am ultimately responsible, can
best be responded to by my resignation." As he read my letter, Bush was
quiet.
"Mr. President, the Department of Defense will be better off if I resign," I insisted.
"That's not true," he responded, tossing
the letter across the table back to me.
I told the president my mind was made up.
Nonetheless, he insisted that he wanted some time to think about it and to consult
with others. The next day, Vice President Cheney came to the Pentagon.
"Don, 35 years ago this week, I went to work for you," he said,
"and on this one you're wrong."
In the end, Bush refused to accept my resignation.
Adapted from Known and Unknown: A Memoir by Donald
Rumsfeld, with permission from Sentinel, a member of The Penguin Group, USA.
Copyright 2011, Donald Rumsfeld.
Rumsfeld's 'Slice of History'
In an interview, the former secretary of defense explains
how Washington feuds harmed Iraq policy, and why the surge was less vital than
you think.
'I'd read other folks' books about things I'd been
involved in . . . and I'd think, 'My goodness, that's not my
perspective,'" chuckles former Secretary of Defense Donald Rumsfeld in an
interview last Friday. "I remember talking to [former Secretary of State]
George Shultz and he said, 'Don, that's the way it is. Everyone has their slice
of history and you need to write yours one day so that it is part of the
records.'"
History, meet Mr. Rumsfeld's view. With today's release
of "Known and Unknown"—the 78-year-old's memoir of his tenure as
defense secretary under George W. Bush and Gerald Ford, his years in the Nixon
administration and his three terms as an Illinois congressman—"Rummy"
is offering his slice of history. As befits a man who has spent decades
provoking Washington debate, his chronicle is direct and likely to inspire some
shouting.
The usual Rumsfeld critics (including some in the Bush
family circle) are rushing to categorize it as a "score-settling"
account, but that's a predictable (and tedious) judgment. At the heart of Mr.
Rumsfeld's book is an important critique of the Bush administration that has
been largely missing from the debate over Iraq. The dominant narrative to date
has been that a cowboy president and his posse of neocons went to war without
adequate preparation and ran roughshod over doubts by more sober bureaucratic
and strategic minds.
What Mr. Rumsfeld offers is a far more believable account
of events, one that holds individuals responsible for failures of execution. He
describes a White House with internal problems, at the heart of which was a
National Security Council overseen in Mr. Bush's first term by Condoleezza
Rice. Ms. Rice's style of management, argues Mr. Rumsfeld, led to indecision,
which in turn led to the lack of a coherent post-invasion plan, to a sluggish
transfer of power to Iraqis, and to a festering insurgency. If nothing else,
this gives historians something valuable to ponder as they work on an honest
appraisal of the Bush years.
Mr. Rumsfeld tells me that he sees his 815-page volume as
a "contribution to the historic record"—not some breezy Washington
tell-all. In his more than 40 years of public service, he kept extensive
records of his votes, his meetings with presidents, and the more than 20,000
memos (known as "snowflakes") he flurried on the Pentagon during his
second run as defense secretary. Mr. Rumsfeld uses them as primary sources,
which accounts for the book's more than 1,300 end notes. He's also digitized
them so readers and historians can consult the evidence first-hand at
www.rumsfeld.com.
And yes, he has every intention of using this material to change history's view of past controversies—some that go way back. One example: The book notes a "particularly stubborn . . . myth": the charge that, as White House chief of staff, Mr. Rumsfeld pushed President Ford to appoint George H.W. Bush as CIA director, in order to banish a rival. Mr. Rumsfeld cites the memo he provided the president—"at [Ford's] request"—evaluating the strength of CIA candidates. It shows that, in fact, he placed the elder Mr. Bush "below the line" on his list—meaning, he was not a "top recommendation" (ouch).
Mr. Rumsfeld devotes an early chapter to his meditations
on the purpose of the National Security Council (NSC), accompanied by his
judgment that National Security Adviser Condoleezza Rice did a poor job of
airing and debating substantive disagreements between the State and Defense
departments. Rivalries between State and Defense are nothing new, yet Ms.
Rice's most "notable feature" of management, writes Mr. Rumsfeld,
"was her commitment, whenever possible, to 'bridging' differences between
the agencies, rather than bringing those differences to the President for
decisions."
"Condi Rice is a very accomplished human
being," he says in our interview, and "she had an academic
background. Blending things and delaying things is okay in the academic world.
She developed a very strong relationship with the president, which is
critically important. And yet one of the adverse aspects of the way things
functioned—and I wouldn't use the word 'dysfunction'—is that things did get
delayed, and the president didn't get served up, in a crisp way, options that
he could choose among."
The memoir relates notable instances when this dynamic
played out, but none with more consequence than the muddled plan for postwar
Iraq. The Defense Department pushed early on "to do what we'd done in
Afghanistan"—where a tribal loya jirga had quickly anointed Hamid Karzai
as leader. "The goal was to move quickly to have an Iraqi face on the
leadership in the country, as opposed to a foreign occupation." Mr.
Rumsfeld's early takeaway from NSC meetings was that "the president
agreed."
Yet Colin Powell's State Department was adamantly
opposed. It was suspicious of allowing Iraqi exiles to help govern, claiming
they'd undermine "legitimacy." It also didn't believe a joint
U.S.-Iraqi power-sharing agreement would work. These were clear, substantive
policy differences, yet in Mr. Rumsfeld's telling, Ms. Rice allowed the impasse
to drag on.
The result was the long, damaging regency of Paul Bremer
as the head of the Coalition Provisional Authority—which Mr. Rumsfeld believes
helped inspire the initial Iraq insurgency. Mr. Bremer, who set up shop in one
of Saddam's opulent palaces, continued to postpone the creation of an Iraqi transitional
government. He instead appointed a "governing council" of Iraqis but
refused to give even them any responsibility. The result: delays in elections
and in building post-Saddam institutions.
"You are always better having a president look at
each option, at the pros and cons, and make a decision among them, than trying
to merge them," says Mr. Rumsfeld, especially when positions are
"contradictory to a certain extent."
Mr. Rumsfeld also faults today's Washington culture, with
a hyperaggressive Congress and more "litigious society." During his
earlier Washington years, recalls Mr. Rumsfeld, Henry Kissinger wrote clear
memoranda outlining "the pros and cons" for the president. But in the
modern NSC there's a reluctance to write things down—lest it land in an
investigation.
The lack of clear decision-making also led to blurred
authority, which Mr. Powell's State Department used to get the upper hand in
turf battles. Ms. Rice used it too, in late 2003, to wrest more personal
control over postwar operations via her "Iraqi Stabilization Group"—a
job for which Mr. Rumsfeld writes that Ms. Rice and her staff did not have
"the interest or skill."
Officially, Mr. Bremer reported to Mr. Rumsfeld. But he
"viewed himself as the president's man, had a background in the State
Department, and a relationship with Condi Rice," says Mr. Rumsfeld. So Mr.
Bremer chose what guidance he preferred, which Mr. Rumsfeld describes as the
equivalent of having "four or eight hands on the steering wheel."
Critical issues—whom the U.S. should support, who should have power, how
quickly to turn over authority—lingered. I ask Mr. Rumsfeld why he didn't
simply fire Mr. Bremer. He says he couldn't. Mr. Bremer was "a
presidential envoy" and served at Mr. Bush's pleasure.
Mr. Rumsfeld somewhat shields the president in his book.
When the president was brought options, insists Mr. Rumsfeld, "he was
perfectly willing" to make decisions. Then again, the book makes clear
that Mr. Bush was aware of the ugly conflicts between State and Defense. And
there's no getting around Mr. Bush's responsibility as wartime manager and Ms.
Rice's boss.
Mr. Rumsfeld is less blunt about his own department's
mistakes, though he does sidle into them. One question is why it took so long
to replace Gens. George Casey and John Abizaid, on whose watch the Iraqi
insurgency grew. Mr. Rumsfeld's memoir notes that no one on the NSC or the
Joint Chiefs had recommended they be removed by the autumn of 2006, Mr.
Rumsfeld's last months on the job. Yet he does acknowledge a visit in September
of 2006 from retired Gen. Jack Keane, a key architect of the surge, who warned
that the two generals were not "sufficiently aware of the gravity of the
situation." When I ask Mr. Rumsfeld if they were indeed left in Iraq too
long, he concedes: "In retrospect, you could make that case."
He isn't as willing to acknowledge that he was slow to
address Iraq's insurgency. It was never one insurgency, he says, but rather it
"evolved, and took different shapes." The first wave, he says, was
"Saddam and his Baathists attempting to regain power" aided by
"criminals" whom Saddam had released from jail. Then came the influx
of terrorists—"facilitated through Damascus"—coming to fight against
Americans. Al Qaeda joined the fray, as did a Shiite uprising under Moqtada
al-Sadr and his Mahdi Army. "We couldn't lose any battles over there, but
we couldn't beat them militarily," he says. "Because there was no one
to beat. It was a totally unconventional asymmetrical circumstance."
Mr. Rumsfeld thus takes an unorthodox view of the
significance of President Bush's surge, which began to take effect in early
2007. He argues that by 2006 things were, in fact, improving in Iraq. The Anbar
Awakening—which Mr. Rumsfeld credits as beginning in the fall of 2006—"had
convinced a lot of Sunnis they didn't want to be associated with al
Qaeda," and "the government of Iraq was evolving the ability to take
on some of the radicals" with the help of Iraqi security forces that had
become "very capable."
As a result, he argues, the force of President Bush's
surge was as much "psychological" as anything else. "The
president's decision galvanized the opinion in Iraq. It said: 'Look, if you
think it is going to go to the insurgents, you are wrong.'" The fact of
the statement, argues Mr. Rumsfeld, mattered as much as did the increase of
troops "tactically or strategically."
Though viewed by many as the spear of Mr. Bush's
"freedom agenda," Mr. Rumsfeld also expresses misgivings about
"nation-building." He disagrees with the "Pottery Barn
rule"—attributed to Mr. Powell—that "if you break it, you own
it," arguing Iraq was already broken under Saddam. While he acknowledges
that the U.S. had security obligations to Iraq, he expresses discomfort with
Mr. Bush's broad promises for democracy, and he worries that countries too
frequently develop an overreliance on the U.S.
This is part of his answer when I ask what went wrong
(again) in Afghanistan. He notes that committed "Islamists" don't
just "disappear." "We've given them a chance, a good chance, to
fashion a country that can have the kind of security that the Taliban didn't
permit. The Afghan people have to decide."
Mr. Rumsfeld's critics are bitter that his memoir didn't
go the obvious commercial route, serving up a grand apology for his role in the
wars. Yet readers might be appreciative to find themselves in possession of a
serious memoir, more in keeping with the older Washington tradition of Dean
Acheson or Henry Kissinger. As might the historians.
[1] Năm 1971
Tổng Thống Nixon được ghi nhận là
người nói về Rumsfeld như sau: "ít nhất Rummy đủ
cứng cỏi" và "Nó là một thằng nhỏ cộc
cằn, độc ác. Các bạn
có thể chắc chắn về điều đó." (In
1971 Nixon was recorded saying about Rumsfeld "at least Rummy is tough
enough" and "He's a ruthless little bastard. You can be sure of that.)
[2] "một tin đồn vô căn cứ" dịch chữ canard: a false or unfounded report or story; especially: a fabricated report or a groundless rumor or belief. Tiếng canard xuất phát từ tiếng Pháp, nghĩa đen là con vịt (ở đây có thể dịch là tin vịt hay tin vịt trời) do việc người Pháp bán một nửa con vịt như bán nguyên con để lừa bịp.
[3] Washington: đề cập đến guồng máy chính quyền, gồm có các bộ trong chính phủ Mỹ, hoặc quốc hội Mỹ, hoặc cả chính phủ và quốc hội (lưỡng viện).
[4] "hồi
ký để tiết lộ các tin tức bê bối hay thân
thiện" dịch chữ tell-all
: Informal: A publication, such as a biography or memoir, that reveals intimate
or scandalous information.
[5] "đại hội đồng" dịch chữ Loya Jirga (ký âm tiếng Pashto).
[6] "chọn lựa" dịch chữ anoint: nghĩa đen: xoa dầu, xức dầu - nghĩa bóng: select/ pick out/ choose by or as if by divine intervention.
[7] chức vụ này có thể hiểu giống như chức quan Thái Thú của Tàu qua Việt Nam đô hộ vào thời xa xưa.
[8] Xem cước chú số 1
[9] "trận chiến dành quyền lực" dịch chữ turf battles: cuộc tranh cãi, chiến đấu để dành quyền lực hoặc khu vực ảnh hưởng giữa hai nhóm.
[10] "bốn hoặc tám bàn tay trên tay lái" dịch thành ngữ four or eight hands on the steering wheel, ý muốn nói lắm thầy, thối ma. Thành ngữ đồng nghĩa: Too many cooks in the kitchen or Too many cooks spoil the broth/soup
[11] Phong trào Tỉnh Thức Anbar (Anbar Awakening movement), còn được biết dưới tên Chương trình Những người con Iraq (Sons of Iraq program) khởi sự bởi các bộ lạc Sunni ở tỉnh Anbar, rồi chỉ trong vòng một năm, biến thành một lực lượng vũ trang đặc biệt (ad-hoc armed force) khắp nước Iraq. Lúc đầu, lính của phong trào này do Mỹ trả lương hoàn toàn. Tuy nhiên, sự lớn mạnh nhanh chóng của phong trào cũng đưa đến một số lo ngại rằng al-Qaeda có thể xâm nhập vào.
[12]
Quy
tắc Pottery Barn dùng để chỉ một chính sách
"bạn đập bể nó, bạn phải sở
hữu nó" của một gian hàng bán lẻ, nghĩa là
họ quy trách nhiệm cho khách hàng nếu khách gây thiệt
hại, đổ vỡ cho hàng hóa trưng bày trong tiệm. Chính sách này gán ghép sai lầm cho
hệ thống bán trang thiết bị nhà cửa Pottery Barn
ở Mỹ. Nó
được trích dẫn rộng rãi bởi giới
truyền thông vào tháng Tư, 2004 sau khi được
được đề cập trong cuốn sách Kế
hoạch tấn công của ký giả tờ Washington Post là Bob
Woodward. Theo Woodward, Ngoại
Trưởng Mỹ Colin Powell đã trích dẫn quy tắc
này khi khuyến cáo Tổng Thống George W. Bush, vào mùa Hè,
2002, về những hậu quả của biện pháp quân
sự tại Iraq.
Ngoại
Trưởng Colin Powell dẫn quy tắc "Pottery
Barn." Ông nói với Tổng
Thống, "Tổng Thống sẽ là sở hữu
chủ vẻ vang của 25 triệu người. Tổng Thống sẽ sở
hữu tất cả hy vọng, nguyện vọng, và
vấn đề. Tổng
Thống sẽ sở hữu tất cả điều
đó." Một cách riêng
tư, Powell và [Thứ Trưởng Ngoại Giao Richard]
Armitage gọi đó là quy tắc Pottery Barn "bạn
đập bể nó, bạn phải sở hữu nó"
(trang 150)
The
Pottery Barn rule refers to a "you break it, you own it" policy of a
retail store that holds a customer responsible for damage done to displayed
merchandise. The policy was erroneously attributed to Pottery Barn, a chain of
home furnishing stores in the United States. It was widely quoted by news media
in April 2004 after being prominently mentioned in the book Plan of Attack by
Washington Post journalist Bob Woodward. According to Woodward, United States secretary
of state Colin Powell cited this rule when warning President George W. Bush, in
the summer of 2002, of the consequences of military action in Iraq.
Secretary of State Colin Powell has quoted the "Pottery Barn rule."" 'You are going to be the proud owner of 25 million people,' he told the president. 'You will own all their hopes, aspirations, and problems. You'll own it all.' Privately, Powell and [Deputy Secretary of State Richard] Armitage called this the Pottery Barn rule: You break it, you own it." (page 150)