Những Người Lính Năm Xưa
Tao bị
thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối ! Vết thương còn
nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành...
Ngày " Giải phóng Miền nam "
Vợ tao " Ẵm " tao như một đứa
trẻ sơ sanh...!
Ngậm ngùi rời " Quân-Y-Viện "
Trong lòng tao chết điếng,
Thấy người lính Miền bắc mang khẩu súng AK
!
Súng " Trung cộng " hay súng
của " Nga " ?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do
Miền nam
-Nước Việt,
Mang chữ " NGỤY " thương binh.
Nên " Người anh,em phía bên
kia..."
Đối xử với tao không một chút thân tình...!
Mày biết không !
Tao tìm đường về quê nhìn không thấy ánh bình
minh.
Vợ tao: Như " Thiên thần"
từ trên trời rơi xuống...
Nhìn hai đứa con ngồi trong căn chòi gió cuốn,
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai
tay,
Làm sao " Ôm " nổi bốn con người trong
cơn gío lốc.
Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc.
Còn an ủi cho tao,một thằng lính
què !
Tao đóng hai cái ghế thấp,nhỏ bằng tre,
Làm "Đôi chân" ngày ngày đi lại
Tao quét nhà; nấu ăn; giặt quần; giặt áo...
Cho heo ăn thật là "Thoải mái" !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần !
Lên liếp trồng rau,thân tàn tao làm
nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn,rồi
thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá gì chuyện gío sương...
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân. Vợ tao hay tin nhưng không "Buồn
khóc"!
Vậy mà bây giờ...
Nhìn tao...nuớc mắt bả...rưng rưng
!
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày "Được đi Cải
tạo"!
Hàng thần lơ láo - Xa xót cảnh đời...
Có giúp được gì cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi !
Rồi đến mùa "H.O"
Mầy đi tuốt tuột một hơi. Hơn
mười mấy năm trời...
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ...buồn
hiu !
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là "Việt kiều"!
Còn "Yêu nước" hay không - Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.Tao vớt cá chốt lên chưng với
tương...
Còn rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng mình uống cho đến...điếc !
Trang Y Hạ


Năm xưa chồng tôi là người
lính, Nơi vùng lửa đạn, Mồ hôi anh đã
đổ, Từ Hố Bò Bình Dương, Bình Long,
Đến Thừa Thiên, Quảng Trị. Rồi một
ngày anh gục ngã, Tại chiến trường Tây Ninh. Tôi
góa phụ xuân xanh, Con thơ chưa tròn tuổi, Tiễn
đưa anh lần cuối, Về nghĩa trang quân
đọi Biên Hòa Đã bao nhiêu năm qua,....
Bây giờ, Tôi ở nơi xa, Đã có cuộc đời
khác. Nhưng đôi lúc nghĩ đến anh tôi vẫn
khóc, Thương tiếc xa xăm. Tôi về tìm mộ bia
anh giữa chập chùng cỏ dại cây hoang, Để
thắp một nén nhang, Nhớ người lính của
một thời chinh chiến, Nhớ người
chồng của một thuở gối chăn. Năm
xưa chồng tôi là người lính, Một lần hành
quân, Anh đã bị thương, Máu anh loang ướt
vạt cỏ ven đường. Ôi, mảnh đất
không tên, Đã giữ chút máu xương người lính
trẻ. Đã bao nhiêu năm qua, Bây giờ, Anh
thương binh tàn tạ. Sống trên quê hương
đôi khi vẫn thấy mình xa lạ, Bạn bè anh,
Kẻ mất người còn, Kẻ quên người
nhớ, Kẻ vô tình giữa dòng đời vất
vả. Năm xưa chồng tôi là người lính,
Nồng nhiệt tuổi đôi mươi, Lần
đầu tiên ra chiến trường, Anh mất tích
không tìm thấy xác. Mẹ anh khóc cạn khô dòng
nước mắt, Lòng tôi nát tan. Đã bao nhiêu năm,
Vẫn không có tin anh, Anh ơi, dù quê hương mình đã
hết chiến tranh, Tàn cơn khói lửa, Nhưng không
phải là một quê hương như anh ước
mơ. Anh đã biết chưa? Hỡi người
tử sĩ không tên không một nấm mồ.!!!
Năm xưa chồng tôi là người lính, Sống sót
trở về sau cuộc đao binh, Sau những tháng
năm tù tội, Bây giờ anh không còn trẻ nữa. Lìa
xa quê hương, Sống ở xứ người.
Những năm tháng chinh chiến đã đi qua, Nhưng
vết thương đời còn ở lại, Trong lòng
anh, Trong lòng những người lính năm xưa.
Nguyễn Thị Thanh Dương
Nếu có ai biết người tác giả bài
này thì xin cho gữi một lời cám ơn, vì vẫn còn
thương nhớ đến những người
đã hy sinh cho Miền Nam chúng ta.Đến ngày nay, đã
hơn 35 năm qua dễ mấy ai còn nhớ đến
họ.Xin thắp một nén nhang cho những bạn bè
đã nằm xuống trong cuộc chiến vừa qua.
NHỮNG NGÔI MỘ PHỦ LÁ CỜ VÀNG
Tôi đã thấy những ngôi mộ phủ
lá cờ vàng,
Trong nghĩa trang còn tươi màu
đất mới,
Quê hương Việt Nam một thời
lửa khói,
Người lính quên mình vì lý tưởng
tự do.
Các anh hiên ngang chết dưới màu
cờ,
Bỏ lại vợ hiền, đàn con
thơ dại,
Những vành khăn tang bàng hoàng chít vội,
Nước mắt nào cho đủ tiễn
đưa anh?
Có thể anh là người lính độc
thân,
Chưa có người yêu, lên
đường nhập ngũ,
Ngày mẹ già nhận tin anh báo tử,
Tuổi đời già thêm vì nỗi
đớn đau.
Có thể anh vừa mới có người
yêu,
Hẹn cưới nhau khi tàn mùa chinh
chiến,
Tiền đồn xa chưa một lần
về phép,
Anh đã ra đi mãi mãi không về.
Súng đạn vô tình làm lỡ hẹn
thề,
Người yêu anh đã có tình yêu mới,
Khi trên mộ anh chưa tàn hương khói,
Trách làm gì!. Thời con gái
qua mau.
Hỡi người tử sĩ
dưới nấm mồ sâu,
Tiếc thương anh lá cờ vàng ấp
ủ,
Nghĩa trang quân đội những ngày
nắng gió,
Vòng hoa tang héo úa chết theo người.
Những ngôi mộ phủ lá cờ vàng. Xa
rồi,
Xác thân anh đã tan vào cát bụi,
Nhưng lịch sử vẫn còn ghi nhớ
mãi,
Miền Nam Việt Nam cuộc chiến
đấu hào hùng.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( Jan.19-2010)

Anh chưa hề thua trận
Anh chưa hề rơi gươmTháng Tư, anh gãy
súngBỏ cuộc trong hờn căm.Cuộc chơi
đầy gian lận,Tàn nhẫn và đau
thươngCuộc chơi đầy nước
mắtNước mắt tràn quê hươngCuộc
chơi nhiều phản trắcĐồng minh cũng
bỏ rơiCuộc chơi đầy chết
chócChiến trường, anh lẻ loiTháng tư, anh gãy
súngBóng tối ngập quê nhàHòa bình cho tan nátThống
nhất tạo chia xaTháng tư, anh gãy súngMiền Nam
buồn xác xơĐổi đời, dân than khócLầm
than trên quê xưaBạn bè dăm bảy đứaLác
đác tìm tin nhauCoi ai còn, ai mấtGiữa cuộc
đời hư haoTháng tư buồn da diếtTháng
tư, người mất nhauNgày tháng tư thật
chậmĐếm thời gian, lòng đauAnh vẫn là hào
kiệtHy sinh cho quê hươngDù mang thân ngã ngựaAnh
vẫn còn tâm hồn !!!
Lê Văn Thắng (4/2010)
Thân tặng các bạn đồng môn khóa
10B/72.
Các bạn Phạm Hòa, Dong Quang Le, Tuấn râu, Quách Năm
và các bạn mới gặp lại.
Huynh Trưởng Vĩnh Thao khóa 9 B/72
Ba mươi lăm năm ngày ấy ta chia tay,
Cung kiếm bên mình nay đành dang dở.
Chinh chiến tàn sầu mộng kiếp chinh nhân,
Đâu còn nữa sa trường quân mạc tiếu
Ba mươi lăm năm ngày ấy ta xa nhau,
Tang bồng hồ thỉ tung cánh cuộc đời ta,
Vẫy vùng muôn phương mộng chốn giang hồ,
Anh biên giới, tôi vùng sông nước,
Anh cao nguyên, tôi băng rừng lội suối,
Dâng hiến non sông cả cuộc đời .
Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,
Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,
Bạc con tim, bạc cả mái đầu,
Cười rung nhẹ nuốt hận thương
đau,
Ba mươi lăm năm ngày ấy đã xa,
Ba mươi lăm năm ngày ấy, ta lại gặp,
Mời Anh cạn chén bồ đào,
Giang san một mối người xưa đâu rồi?
Lệ rơi, cạn chén nghẹn ngào
Say tình huynh đệ say đời buồn đau,
Anh đi gởi tấm thẻ bài,
Là đây kỷ vật năm nào Anh trao
Mời anh cạn chén quang bôi,
Bạc đầu chiến sỹ, nay đời nổi
trôi
Ba mươi lăm năm ấy ta đã gặp,
Đừng quên nhé, anh em ta lại gặp,
Đủ bạn bè thương nhớ lại
đầy vơi…
|

1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính
ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ
điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư
bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi
loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng
ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của
những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng
ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng
nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt
đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống
đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn
chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng
đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi - của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc
3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui
đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở
lại làm người giã từ ghế đá công viên
để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên
xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy
sinh…
4.
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu
chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của
chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ
đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng
trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy
ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối
tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nhìn và
trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong
sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ
ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn
gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng
kiếm tủ lạnh, ti-vi, cassette, radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở
đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác
rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành
phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch
đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn
bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn
chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá
khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin
vào “thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân
(1982)
" ĐÂY
LÀ TIẾNG NÓI NƯỚC VIỆT NAM
PHÁT THANH TỪ THỦ ĐÔ SAIGÒN ..."
Cho đến nay tiếng nói ấy vẫn còn
Vang vọng mãi trong trái tim Ngưòi Lính .
Là hình ảnh của một thời ổn định
Là tiền đồn của Thế Giới Tự Do
Của miền Nam nước Việt rất ấm no
Là thành luỹ mang hồn thiêng sông núi .
Người Lính trẻ đã một thời giong
ruổi
Đem tình người, tình lính trấn biên cương
Vẫn một lòng chung thủy với quê hương
Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng .
Người Lính chúng tôi tuy không Sinh Vi Tướng
Cũng hiên ngang chấp nhận Tử Vi Thần
Trọn một lòng chỉ vì Nước
,vì Dân
Dâng hiến cả đời mình cho Tổ Quốc .
Từ Quảng Trị rét căm mùa gió bấc
Đến Cà Mau mưa lũ ngập đồng sâu
Vết giày Saut lội bất cứ nơi đâu
Để mang lại Tin Yêu và Lẽ Sống
.
Người Lính chúng tôi mang trái tim hào phóng
Của tuổi đời đẹp nhất
: lúc đôi mươi
Làm nguồn vui nơi tuyến đầu lửa
bỏng
Trong gian truân vẫng nồng ấm nụ cười .
Dù đôi lúc có hoang mang , phẫn
nộ
Hay chán chường vì dấu ấn chiến tranh
Nhưng nỗi buồn cũng tan biến rất nhanh
Khi đối diện với kẻ thù ngoài mặt
trận .
Rồi cũng đến lúc chào thua số phận
Khi tàn vong đành Nước mất ,
Nhà tan
Vì thế cùng , lực tận , chỉ thở than :
Thân nhược tiểu, xót thầm , ôi ngang trái !
Người Lính chúng tôi không hề chiến bại !
Chỉ chào thua định mệnh đã an bài
Bởi cô thế đành nương thân hải ngoại
Chờ bình minh quang phục của ngày mai .
HUY VĂN
Khi tôi chết trên bước
đường lưu lạc
Xin mọi người đừng quấn
mảnh khăn tang
Phủ thân tôi danh dự lá cờ vàng
Ba sọc đỏ nối liền Trung Nam
Bắc
Khi tôi chết đừng chôn tôi xuống
đất
Lạnh đáy mồ biết ai đến
viếng thăm
Những đêm trăng bên mộ xác tôi
nằm
Hồn ẩn hiện thẩn thờ khi
đêm xuống
Khi tôi chết đừng chôn bên thữa
ruộng
Trên cánh đồng sỏi đá của
miền Trung
Nơi ngàn thu những chiến sĩ anh hùng
Đã yên giấc dưới bóng cờ
chiến đấu
Khi tôi chết đốt tôi thành bụi
trấu
Rãi tro tàn trên biển Thái Bình Dương
Để những ngày trôi giạt mất quê
hương
Được an ủi linh hồn
người xa xứ
Khi tôi chết tên không vào chiến sử
Như bao người vì tổ quốc hy sinh
Đừng ghi tôi vào bia mộ hiển linh
Cho tôi được an lòng trong cỏi
chết
SVSQ Lê Chiến khóa 8/72

Tôi
trở lại viếng thăm người Lính cũ
Từng một thời chia xẻ nổi buồn đau
Cuộc chiến tranh uất hận đến ngàn thâu
Deo dang mai bao năm còn hờn tủi
Lôi Hổ chết, ai người xây nắm mộ
Lá cây rừng phũ lên xác thân anh
Sông gian nguy đói khỗ giữa rừng xanh
Ôi nghiệt ngả bao linh hồn oan khuất
Biệt Hải chết tay ôm mìn kích nổ
Giữa đêm trường lạnh buốt thấu
xương da
Tàu địch quân thũng đấy máu chan hòa "
Vulcan "
Nhuộm đỏ thắm trên dòng sông vĩnh biệt
Hoa dù nở đêm trăng sao lấp ánh
Nấm xương tàn tô điễm dãi non quê
Mộng chiến chinh chưa thõa mãn lời thề
Vì lý tưởng,vì tự do độc lập
Quê hương Mẹ cảnh thanh bình êm ả
Cánh bườm giăng lộng gió thủy triều dâng
Bước li hương ai khóc hận giữa đêm
trường
Ai vinh hiển mong Công hậu, Khánh tường.
Chiến si hề : " thề ra
đi không trở lại "
Chí làm trai thề : " lấy da ngựa bọc thay
"
Hảy quên đi chuyện DANH LỢI thế gian này
Nhìn thế sự như làn mây bây gió thõang.
Thanh Tâm 2004
|
|
( Cảm tác từ bài viết "Pleiku
nắng buị mưa bùn" của Nguyễn Dân và
những hình ảnh về Pleiku của Hoa Phạm).
Pleiku của anh những ngày nắng
bụi,
Trên con đường dài vắng chuyến
xe qua,
Đường đất hoang sơ không
phố, không nhà,
Chỉ có trời mây, hàng cây rất
thấp.
Bụi Pleiku, bụi một màu đỏ
gạch,
Anh đi qua thị trấn buồn ngẩn
ngơ,
Chiều chơi vơi sương mù
mịt biển hồ,
Hồ không đáy? nước
không bao giờ cạn.
Anh lính mới, vừa về vùng lửa
đạn,
Đóng quân ở đây phố lạ,
người dưng,
Thành Pleime heo hút gío xa xăm,
Phi trường Cù Hanh, ai đi ai
đến?
Những ngày Pleiku mưa dầm rả rích,
Thị trấn buồn ảm đạm
ngủ trong mưa,
Mới hôm qua nắng gío cuốn bụi
mờ,
Hôm nay đường phố mưa bùn tội
nghiệp.
Anh lính trẻ lang thang trong phố
ướt,
Qua mái hiên che, qua vũng nước
buồn,
Chiếc xe nhà binh đậu ở ven
đường,
Người ta sống giữa chiến
tranh và chết chóc.
Pleiku phố nhỏ, những con
đường ngắn,
Đầu đường cuối
đường không đủ mỏi chân,
Đường Hoàng Diệu anh qua đã bao
lần?
Bụi đất đỏ theo anh về
quen thuộc.
Bụi theo anh đường hành quân xuôi
ngược,
Thôn xóm xác xơ hay những buôn làng,
Cô gái Ê Đê thấp thóang nhà sàn,
Anh mơ một đêm rượu cần
chếnh chóang.
Pleiku của anh một thời chinh chiến,
Đi đâu về đâu vẫn nhớ
nơi này,
Ai trách Pleiku tẻ nhạt, lưu
đầy?
Ai lưu luyến khi chia tay phố núi?
Đầu sóng ngọn gío anh còn ở
lại,
Trận địa Pleiku có lúc kinh hoàng,
Vẫn yếu mềm ngơ ngẩn
một dáng em,
Sống và chết, Tình yêu và nỗi nhớ.
Bao nhiêu năm, bao mùa rừng thay lá,
Bụi thời gian không che khuất bụi
đường,
Vẫn còn trong anh nắng bụi mưa bùn,
Thành phố núi một góc đời trai
trẻ.
Nguyễn Thị Thanh Dương
( April, 2011)
Friday, December 24, 2010
Giải Phóng
Em trót sinh ra sau ngày "giải phóng"
Và lớn lên khi đất nước "thanh bình"
Nhưng cuộc đời sao vất vả điêu linh
Mẹ buôn gánh bán bưng nuôi con dại
Em đi học, qua đồng khô cỏ
cháy
Trời quê hương bàng bạc áng mây buồn
Đường chiều về leo lét ánh tà buông:
- "Con đói quá, mẹ ơi trời sắp
tối!"
Sáng đi học bụng em còn thấy
đói
Cô dạy em phải yêu kính "bác" Hồ
Em hỏi: - " 'bác' là ai vậy, hở Cô?"
Cô bảo: -"Nhờ 'bác', đảng ta 'CHIẾN
THẮNG '!"
Em không hiểu, nhưng cúi đầu im
lặng
Mà trong lòng thắc mắc mãi không thôi
"CHIẾN THẮNG" gì? Sao khổ qúa đời tôi,
Nhà, họ lấy, phải đi vùng kinh tế!
Ba mươi năm, lớn lên đời
vẫn thế
Trời quê hương còn đó áng mây buồn
Vẫn từng ngày, vẫn kiếp sống đau
thương
Em thay mẹ: Đời bán bưng buôn gánh!
Em tự hỏi nếu đảng không
"CHIẾN THẮNG"
Nước Việt Nam có chậm tiến thế nầy?
Người dân hiền đâu ngậm đắng
nuốt cay
Bị "xuất khẩu" sang xứ người lao
dịch!
Em thầm hỏi: "Ai đây là kẻ
địch?"
Mỹ, Ngụy, bác Hồ, hay cộng đảng ta?
Ngụy bây giờ là khúc ruột phương xa Mỹ là
thầy, là ân nhân kinh tế!
Nước Việt thụt lùi
bao thế hệ
Từ môi sinh cho đến đạo làm người
...........................
Xã hội
xuống dốc nhanh không tưởng được
Quan bạo tàn, tham nhũng đến vô lương
Chuyên hối lộ, cướp nhà, chiếm hết
ruộng nương
Dân thấp cổ kêu trời cao chẳng thấu
..........biến nước ta lạc
hậu
Dân Việt Nam nghèo nhất cõi năm châu
Những huy hoàng ngày cũ nay còn đâu
Phụ nữ Việt bán thân ngoài muôn dặm!
Ôi tổ quốc, ôi quê hương
nhung gấm
Hỡi địa linh, nhân kiệt hãy vùng lên!
Giành TỰ DO, DÂN CHỦ với NHÂN QUYỀN
Quyết đập đổ NỘI THÙ
Việt Nam lại sáng
Đàn con Hồng cháu Lạc đứng cao lên
Xây đấp non sông, bờ cõi vững bền
Đó là lúc toàn dân ta CHIẾN THẮNG!
Hương Sài-Gòn

Ad:
Bravenet Counter Stats
TẠ LỖI TRƯỜNG
SƠN
1.
Một
ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh - buồn nôn - phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính
ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ
điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư
bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi
loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội
nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của
những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng
ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng
nước
Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt
đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống
đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn
chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng
đường
Ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi - của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc
Không
rõ tác giả
(Nguồn:
Trần Ngọc Toàn chuyển tiếp
anhdaodalat@yahoogroups.com)
|