Thơ Pablo Neruda - nhạc Nguyễn Đức Quang
Thơ Pablo Neruda - Nhạc Nguyễn
Đức Quang - Những bản nhạc cuối cùng và
cũng cuối đời của một nhạc sĩ du
ca. Không biết đó có phải là một sự kiện
lạ? Nhưng rõ ràng là một cái duyên, trước hai ngày
nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang bị vào nhà
thương khởi đầu cho một chuyến ra
đi vĩnh viễn, ông đã hát hai bản nhạc
mới sáng tác của mình trong một buổi họp
mặt nhân dịp nhạc sĩ Trần Quang Lộc từ
Việt Nam qua. Hai bản nhạc ấy là những lời
ngỏ của trái tim tràn ngập tình yêu phổ từ
thơ của Pablo Neruda, một thi sĩ người Chile
đoạt giải Nobel văn chương của Hàn Lâm
Viện Thụy Điển năm 1971.
Và hai bản nhạc ấy
đều là những tình khúc có lẽ tha thiết nhất
lúc cuối đời của anh. Trong khi hát, anh đã trong
hứng khởi vô hạn của một người
đang yêu và dưới đôi mắt và suy nghĩ của
những người nghe, nhạc sĩ đang trở
lại những thuở yêu nhau đầu đời
của những con dốc cũ những hẻm phố
xưa của thành phố sương mù Đà Lạt. Không
một ai có thể ngờ rằng chỉ sau đó hai ngày
anh lại bị đột quỵ và hôn mê cho tới khi vĩnh
viễn rời bỏ trần thế. Tôi nhớ sau
buổi họp mặt đến nửa đêm rất
khuya, anh đã lái xe chở anh chị Nguyễn Đình Toàn
và Trần Quang Lộc về nhà. Anh còn hứa hẹn
sẽ tham dự vào nhiều chương trình khác trong
thời gian sắp tới. Lúc ấy, hình như những
căn bệnh cũ đã tưởng tuyệt căn
rồi và những cuộc giải phẫu tim những
lần trước đã thành quá khứ. Anh hát, vung tay múa
chân diễn tả ý nghĩ của mình thật vui vẻ
sống động. Trong khi Trần Quang Lộc hát
những bản trầm lắng hơn thì anh như đang
trong một buổi hò hẹn nào mà nhạc và thơ cùng có
một hứng khởi và một tâm sự.
Hình như, nhạc sĩ trong những phút
giây cuối cùng của mình rất yêu cuộc sống. Và anh
đã lôi cuốn những người thân, những
bằng hữu với một tinh thần lạc quan trong
sáng. Hai tình khúc phổ từ thơ Pablo Neruda cũng xác tín
điều ấy. Nhan đề của hai bài thơ là
lời ngỏ nồng nàn của trái tim. “Anh thích em lặng
thinh” và “Em là của anh” là những thông điệp tình yêu
tha thiết trao gửi. Đúng là lời tuổi trẻ. Là
tiếng nói thiết tha, của một trời tình yêu.
Buổi tối hôm đó, mọi người lắng nghe
ngôn ngữ trẻ trung của thời đôi tám của
nỗi lòng dàn trải theo từng cung bậc âm thanh.
Với “Em là của anh” lấy ý từ bài thơ ”In My Sky at
Twilight” của Pablo Neruda:
“Khi ánh nắng khuất sau đường chân trời
Em là bóng mây
Em là áng mây
Mà anh trót yêu mà anh trót yêu
Em là của anh
Người em có đôi môi ướt
Đã gặp nhau đi đâu về đâu
Đem theo mộng ước
em là của anh em là của anh
những chiều chạy quanh chạy quanh
em là hiện thân
làm anh hụt hơi
những đêm trăng ngời
vòng tay lả lơi
những đêm miệt mài
dường như có ai
em là người em
của chuyện mốt mai
có em bên mình
ngồi kể xưa sau
em là vì sao
nhốt trong âm nhạc
rộn ràng riêng anh
em là hồn anh
rồi một chiều quanh
nhan
sắc mùa xuân…”
Mở đầu bài hát, nhạc sĩ vào
đề: ”Đọc bài thơ của Pablo Neruda, nhan
đề “Khi ánh nắng khuất sau đường chân
trời” thì thấy cũng thường thường
chưa tạo được cảm xúc gì mấy. Nhưng
khi gặp câu ”Em là của anh” thì tự nhiên bật ra
cảm xúc. Hợp tình hợp lúc tôi viết nhạc cho
lời thơ này như một cách để thể
hiện tâm tư mình lúc đó...” Anh đã hát, đôi mắt
linh động và hình như cả con người anh, thân
thể anh, tâm tư anh, là một, của những phút giây
sống thực đến lạ kỳ.
Bản nhạc thứ hai ”Anh thích em lặng
thinh” cũng lại là những lời ngỏ của
đôi lứa yêu nhau, là điệu thở thầm thì
của những người đến với nhau. Trong
đêm khuya, gần nhau mà sao xa quá. Trời đất,
trăng sao, sắc mầu, hơi thở,… tất cả
như xa xôi mà cận gần. Thi sĩ và nhạc sĩ
như cùng nhau ở trong một giây phút nào tận cùng
của cuộc sống, là giọt nước chắt
đến mức vô cùng tinh tuyền như giọt
sương long lanh của một đêm gần lụn
tới bình minh:
“Anh thích em lặng thinh
tựa như ta xa cách nhau
em nghe tiếng anh thật xa
mà anh không sao tới gần
mà anh không sao bắt kịp
có đi tìm hoang vu
sớm như là đôi mắt em
mầu huyền nhung xa quá
giống y như nụ hôn
vẫn phong kín hồn em
đâu đây dáng em thật xa
anh không sao bắt kịp
có đi tìm hoang vu
về ngơ ngác xa vắng
dấu chân vào nơi thinh lặng
có phải lúc đó anh đang nói chuyện
với một sắc mầu
là hơi thở rộn
một vì sao khuya xa thật xa
em thật là giấc ngủ
em là cánh cửa
em là hơi gió
là hơi gió quặn thở đêm qua
em là hơi sầu quạnh quẽ bao la
là vùng quê hương êm đẹp
nụ
cười xanh ngát chưa xa...”
Tôi tiếc là chưa có dịp để hỏi tại sao anh lại chọn thơ Pablo Neruda để phổ nhạc. Chắc có nhiều nguyên do lý thú lắm. Còn tôi, tôi biết thi sĩ này là một khuôn dáng nghệ sĩ đặc biệt từ trong đời sống thường nhật đến đời sống văn chương, từ khuynh hướng chính trị đến đời sống tình dục, từ thơ tình yêu đến thơ khích dục… Chính ông, đã tự gọi mình trong thơ:
”trong thời gian ngắn ngủi nàytôi sẽ chẳng bao giờ quan tâm tới những kẻ khác
mà tôi sẽ tự mở toang mình ra rồi khép kín mình lại
với
kẻ thù bội bạc nhất của tôi là Pablo Neruda”
Ông đã viết rất nhiều thể
thơ, kể cả thơ khích dục như trong tuyển
tập thơ ”Twenty Poems of Love and a Song of Despair”, một
thể thơ siêu thực. Theo truyền thuyết, đáng
lẽ năm 1964 ông đã đoạt giải Nobel văn
chương nhưng vì tình báo Mỹ trong lúc cuộc
chiến tranh lạnh đang ở cực độ nên
vận động để Jean Paul Satre đoạt
giải. Nhưng Sartre đã từ chối giải
thưởng vì cho rằng Pablo Neruda xứng đáng hơn
mình. Năm 1971, Pablo Neruda mới chính thức đoạt
giải văn chương này. Theo Feinstein, tác giả
của “Pablo neruda: A Passion for Life” thì đó có thể chỉ
là chuyện bịa đặt.
Trong tiểu sử của ông, Pablo Neruda là
một người nhút nhát, thiếu tự tin lại
xấu trai. Nhưng sự trác tuyệt về thơ văn
khiến cho ông có sự hấp dẫn với phụ
nữ và trong đời ông có nhiều mối tình
độc đáo. Ông là người rất mê gái và may
mắn là được gái mê lại. Mối tình
đầu của ông với một thiếu phụ Chile có
vóc dáng khuôn mặt hơi hao hao giống tài tử Greta Garbo
của Hollywood là một mối tình bốc lửa cũng
như mối tình thất bại với Albertiba Azocar đã
là một tình sử tạo ra cho ông những bài thơ tình
nổi tiếng. Ông còn có mối tình với một phụ
nữ Miến Điện tên là Josic Biss và cũng là một
chuyện tình thật lãng mạn. Ông có lúc còn yêu
đương mùi mẫn với cả cô cháu vợ là
Alicia. Ông có ba đời vợ, Người vợ
đầu là một phụ nữ Hòa Lan cưới năm
1930 và ly dị năm 1936. Người vợ thứ hai là
một nữ họa sĩ Argentina cưới năm 1943 ly
dị năm 1955. Người vợ cuối là một ca
sĩ người Chile và là nguồn cảm hứng
để ông viết tập thơ nổi tiếng Một
Trăm Bài Thơ Tình.
Tập thơ thứ hai của ông ”Twenty Poems
of Love and a Song of Despair” đã mang tên tuổi của ông thành
một hiện tượng thi ca. Hoàn toàn khác biệt
với tập thơ đầu tay, những bài thơ này
là những bước chân tiền phong khai phá của
người sáng tạo. Thơ dù là thơ tình nhưng
đã vượt qua những khuôn khổ của thơ tình
bóng gió, của những cảm xúc mờ ảo và xác
thịt chỉ là những gợi hình gián tiếp. Thơ
của Pablo Neruda trong tập thơ này có chất tính
dục, thách thức với các khuôn mẫu tình ái cổ
truyền. Thơ được diễn tả không
phải của hình ảnh người đàn bà lãng mạn
mà là hình ảnh sống động của cảm xúc tình
dục, là những vùng thân xác không còn là úp mở trong thơ
nữa. Thơ có những hình ảnh của lột
trần thân thể như trong bài “Thân thể phụ
nữ”:
“Thân xác đàn bà
những ngọn đồi trắng
những bắp vế tuyệt ngần
em tựa như thế trong thế giới của thân xác gọi mời
Tôi bắp thịt cầy sâu cuốc bẩm
Thô lỗ ấn sâu vào trong em
Và làm cho đứa con trai nhảy vọt ra
Từ
nơi thảm sâu trong lòng đất…”
Thơ với Pablo Neruda chỉ là những
cuộc thử nghiệm. Ông đã xuất bản hơn
bốn chục tập thơ và có nhiều quyển
được dịch ra hàng mấy chục ngôn ngữ
hoặc có những tập thơ bán được tới
hàng triệu cuốn. Thơ tình của ông, theo nhiều nhà
phê bình nhận định, là những áng văn
chương tuyệt vời và có ảnh hưởng
đến đại chúng, nhất là với dân tộc
thuộc vùng Nam Châu Mỹ La Tinh. Ariel Dorfman, một giáo
sư đại học Chile, một nhà tranh đấu nhân
quyền, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo nổi
tiếng đã kể lại chuyện ông mang thơ Pablo Neruda
đi tán gái. Ông yêu thầm nhớ trộm một cô gái xinh
đẹp kiêu kỳ và lớn hơn ông 5, 6 tuổi. Ông
đang loay hoay không biết làm cách nào tỏ tình thì một
người bạn hiến kế là dùng thơ Neruda...
Một hôm ông thu hết can đảm đến gần bên
cô gái và đọc thầm cây thơ ”puedo escribir los versos mas
tristes esta noche”. Cô gái kiêu kỳ kia đốp chát liền
”lại thơ Neruda! Veite poemas de Amor”. Cậu là chú bé
thứ năm đọc cho chị nghe trong tháng này đó
nhé! Tại sao cậu bé không tìm đọc Una Canción
Desesperada?” Câu chuyện kể ấy cho thấy rằng
thơ của ông đã ảnh hưởng đến
đại chúng biết bao! tập thơ tình “Veinte poemas de
armor y una canción desesperada” đã bán hàng chục triệu
bản và được coi như là bản tình ca tuyệt
vời của nhân loại.
Thơ của Pablo Neruda có nhiều loại,
nhiều phong cách sáng tạo tiền phong khác nhau. Thơ
của ông thay đổi và trong chủ đích cố
gắng vượt qua chính mình, không bao giờ muốn
đi trên một con đường có dấu chân qua. Chân
dung của Pablo Neruda cũng đa dạng, là một trí
thức thiên tả, một chính khách luôn hô hào tranh
đấu cho người nghèo nhưng lại giàu có và sinh
sống xa hoa. Ông còn là một ứng cử viên cho
đảng Cộng Sản cho chức vụ tổng
thống Chile và cũng là một người đã thần
tượng hóa Stalin, một lãnh tụ Nga khát máu. Có
người đã so sánh Neruda với Tố Hữu của
Việt Nam vì những câu thơ xưng tụng quá lố.
Nhưng, tóm tắt lại, dù có những vai trò khác nhau, ông vẫn là một thi sĩ của tình yêu, của những mối tình muôn đời miên viễn. Và có lẽ suy nghĩ như thế nên nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã phổ nhạc thành những tình khúc cuối đời của mình. Người nghệ sĩ, dù là thi sĩ hay nhạc sĩ, cũng đều có chung trái tim luôn luôn dồn dập nhịp thở tình yêu…
Nguyễn Mạnh Trinh
(Nguồn: ducavn.com)
___________________________________________________________________________________________________