NIỀM ĐAU CHÔN DẤU
Hoàng Ngọc Nguyên
Có thể ngưòi ta chưa biết chắc được tình hình kinh tế sẽ như thế nào sang
năm, khi nước Mỹ đã có môt Hạ Viện hoàn toàn mới (dù chắc chằn vẫn còn
không ít
ngưòi cũ) và một Thượng Viện tương đối mới, nhưng chẳng mấy ai
mơ hồ về con đường
phục hồi kinh tế “hậu suy thoái” trong năm tháng cuối
năm. Tốt lắm, may lắm:
kinh tế sẽ vẫn tăng trưởng, nhưng chậm hơn nữa
so với mức chậm đã ghi nhận được
trong năm nay. Chẳng ai có thể nói được
tình hình xấu đi tận đáy là sao, nhưng
ai hiện nay cũng sợ suy thoái trở lại
(double-dip recession) nếu sự “bất định
khác thường” (cách ông Ben
Bernanke, chủ tịch Quỹ Dự Trữ Liên bang, mô tả tình
hình hiện nay) trong
nền kinh tế càng thêm khác thường. Vấn đề hiện nay là cả nước
nôn nóng,
bồn chồn: chính quyền của Tổng thống Barack Obama đứng ngồi không
yên;
hai đảng chính trị Dân Chủ và Cộng Hòa cũng xôn xao, tất bật; những
người đang
ra tranh cử ồn ào, sôi nổi để che đậy trạng thái điên loạn trong
đầu vì không
khí “Trà Hội” chung quanh; người dân lại càng ăn không thấy
ngon, ngủ chẳng yên
giấc vì những chuyện công ăn việc làm, nhà cửa, bảo
hiểm sức khỏe, tài sản … Tất
cả tâm trạng đó đều xuất phát từ một nỗi lo
ám ảnh: có thể giải pháp cho tình hình
hiện nay không có sẵn trong sách vở
để cho những nhà kinh tế làm chính sách tiện
dụng, trong khi thực tế đòi
hỏi nhưữg kiểm nghiệm có nhiều rủi ro! Thử nghiệm một
phương pháp trị
liệu mới trên một con bệnh, chỉ có một người phải lo. Thử một
chính sách,
hay thậm chí chiến lược kinh tế mới, nếu tình hình đòi hỏi, sự an
toàn của cả
một nước đang bị thử thách, đánh đố!
Sau khi kinh tế quí tư năm 2009 tăng trưởng ở mức tuyệt
đỉnh là 5.2%,
chiều hướng phấn khởi này đã ngày càng kém hào hứng trong nửa đầu
của
năm này. Tỷ lệ tăng trưởng trong quí một năm 2010: 3.7%. Qua quí hai:
2.1%.
Quí ba: chẳng ai dám tin khá hơn quí hai. Quí tư: không ai dám đánh
cuộc
Thanksgiving hay Christmas có khả năng làm chuyện lạ. Trong thực
tế, vì lý do
kiêng cử thế nào đó, mấy tuần qua người ta tránh dùng chữ “suy
thoái”, nhưng ai
cũng nói e rằng sẽ có giảm phát (deflation). Giảm phát là
tình trạng giá cả xuống,
hàng hóa có vẻ ế thừa trên thị trường, khác với
lạm phát (inflation) là giá cả
lên và hàng hóa có vẻ khan hiếm. Thời chúng
ta còn ở Miền Nam, sau khi Mỹ gia tăng sự có mặt trong cuộc chiến tranh
bằng cách
chính thức đưa quân chiến đấu đến vào khoảng tháng ba năm
1965, nền kinh tế miền
nam lao vào tình trạng lạm phát phi mã làm cho
người dân điêu đứng không kể siết
và ông Tổng trưởng Kinh tế Âu Trường
Thanh nhờ thế mới trở nên nổi tiếng với biện
pháp phá giá đồng bạc vào
ngày 18-6-1966. Nhưng hiện nay ở Mỹ, người ta lại
mong cho có một tí lạm
phát để cho người sản xuất được nhờ, mà người sản xuất có
được bát cơm
thì người đi làm công cũng có chút cháo để húp. Nay trong mối lo
giảm
phát, người sản xuất chắc chắn sẽ chẳng làm gì để gia tăng sản xuất cho
hang hóa thêm ế thừa và giá cả càng thêm giảm, mà khi người sản xuất đã
tính toán
như thế, thì làm sao cho tỷ lệ thất nghiệp, hiện nay vẫn ở mức
9.5%, là mức cách đây khoảng một năm, có cơ hội tìm đường đi xuống.
Không khó khăn gì đi tìm những nguyên nhân dễ thấy.
Nguyên nhân đầu
tiên ai cũng nói là cái gói “kích cầu” (stimulus package) nặng
chĩu trị giá
đến gấn 900 tỉ của ông Obama nay đã nhẹ bổng, chẳng còn mấy bên trong,
cho nên làm sao còn sức tác dụng được nữa. Biện pháp kích thích người ta
mua xe
đã hết hiệu lực từ cuối năm ngoái (hoạt động bán xe trong bảy
tháng qua cứ trầy
trật, lúc chạy lúc ngừng), biện pháp khuyến khích người
ta mua nhà cũng ngưng từ
tháng tư năm nay (thị trường nhà cửa vẫn còn
cực kỳ bất ổn, bất định), và dĩ
nhiên tình hình nhà nước trợ cấp bảo hiểm
thất nghiệp cũng khó mà lâu dài và ổn
định… Bên cạnh đó, người ta phải
tính đến tình trạng khốn đốn của những chính
quyền tiểu bang, và một
trong những nơi người ta có thế thấy rõ nhất tình hình
khốn đốn này là ở
tiếu bang châu báu golden state của chúng ta. Ngân sách của
California
thâm thủng, thiêu hụt triền miên vì người ta thiếu một trường Quốc
gia
Hành chánh dạy cho những người có trách nhiệm xây dựng chính quyền
của dân thay
vì một chính quyền theo con đường chủ nghĩa tư bản lũng
đoạn, cho nên đến nay vừa
phải cho bớt công chức nghỉ viêc vừa phải cắt
những phúc lợi y tế, giáo dục, xã
hội của người dân. Trong sáu tháng đầu,
chính phủ lien bang còn thuê mướn tạm
thời cả triệu người tham gia công
tac kiểm tra dân số. Qua tháng sáu và tháng bảy,
nhà nước liên bang hết
việc, đến 600.000 người đã phải trở về vị trí cũ là nằm
nhà chờ thời.. Bởi
vậy, chỉ trong năm nay, chưa nói đến những năm trước, con số
thuần
những người bị mất việc đã lên đến gần 400.000, và con số người bị mất
việc trong 30 tháng qua đã lên đến 8 triệu người.
Chỉ những yếu tố đó mà thôi đã thấy kinh tế khó đi lên,
chưa nói đến những
chuyện như phước bất trùng lai, họa vô đơn chí. Chẳng hạn như
cuối tháng
tư, công ty British Petroleum đã làm cho nến kinh tế Mỹ bị một vố nặng
bằng vụ dầu loang. Người ta tính thiệt hại cho nến kinh tế Mỹ lên đến gần
400 tỷ.
Ông trời còn nghĩ rằng vụ dầu loang của BP chưa đủ liều lượng đối
với nến kinh tế
khổng lồ của Mỹ, cho nên tiện thể dùng “cơ chế” của nền
kinh tế toàn cầu để tấn
công Mỹ bằng cuộc khủng hoảng nợ nần bên châu
Âu và sự suy giảm trong nhịp độ tăng
trưởng ở những nền kinh tế đang
đóng vai đầu tàu của thế giới, là Trung Quốc và
Ấn Độ. Châu Âu lâm nguy
về tài chánh thì những nhà đầu tư của Mỹ phải án binh bất
động. Trung
Quốc và Ấn Độ chậm lại thì Mỹ chỉ có thể tiếp tục chịu nợ để mua hàng
“made in China” Trung Quốc mà chẳng thể bán được nhiều hàng cho Trung
Quốc,
trong khi ở Mỹ ngày nay người ta đang kêu gọi Mỹ phải bắt chước các
nước Đông Á,
Đông Nam Á để trỏ thành một nước “kỹ nghệ hóa với sự dẫn
dạo của xuất cảng” (export-led industrialization)!
Hiện nay có hai khuynh hướng đánh giá về những thành
quả của chính
quyền trong việc vực dậy kinh tế. Chẳng cần đọc nhiều, chúng ta cũng
có
thể biết những nhận xét tích cực đến từ ai, và họ nói gì, những nhận xét
tiêu
cực từ đâu ra và lời người ta nặng nhẹ ra sao. Trên tờ New York Times
(dĩ nhiên),
hôm thứ ba người ta tung ra bài của Bộ trưởng Ngân khố
Timothy Geithner, khẳng định
“chúng ta đang trên đường trở lại tăng
trưởng kinh tế”. Ông cho rằng “những hành
động chúng ta đã áp dụng vào
lúc cao điềm của suy thoái để kích thích kinh tế có tác dụng chận lại sự rơi
tự do của kinh tế,
ngăn cản sự sụp đổ nặng nề hơn nữa và đưa kinh tế trên
đường phục hồi”. Trong
khi nhấn mạnh một lập luận của chính quyền là
“phục hồi kinh tế từ một cuộc khủng
hoảng ở mức độ này sẽ chẳng đến
nhanh chóng và phục hồi sẽ không đi theo một
con đường thẳng”, ông đã
đưa ra nhiều dẫn chứng để cho thấy “chúng ta đã chịu một
cú đấm khủng
khiếp, nhưng chúng ta dang phục hồi trở lại.” Trong khi đó, trên tờ
Wall
Street Journal (cũng dĩ nhiên), một giáo sư kinh tế tại Carnegie Mellon
University, có khuynh hướng đi theo chủ trương kinh tế của cố Tổng thống
Ronald
Reagan (người ta gọi là Reaganomics), đã viết một bài bắt đầu với
câu hỏi “Tại
sao kinh tế Obama thất bại” (Why Obamanomics has failed).
Ông Allan Meltzer khẳng
định “Chương trình kích thích của chính quyền đã
thất bại. Tăng trưởng chậm và
nạn thất nghiệp còn cao. Tổng thống, bạn
ông và những người cố vấn nói không ngừng
về những hoàn cảnh họ thừa
kế như là một cách để tránh trách nhiệm cho 18 tháng
mà họ phải chịu
trách nhiệm. Nhưng họ lại muốn có những biện pháp kích thích mới
– chính
là những chứng cớ có sức thuyết phục là chính họ cũng nhìn nhận những
biện pháp trước đây dã thất bại”. Theo tác giả, nói một cách vắn tắt, sự
thất bại
này là do chính quyền đã chi tiêu quá trớn, và không chịu cắt giảm
thuế cho giới
kinh doanh như cách làm của những tổng thống của đảng
Cộng Hòa, cụ thề là ông Reagan và ông George Bush.
Như thế, tình cờ mà người ta thấy được một sự “nhất
trí cao” giữa hai đảng
Dân Chủ và Cộng Hòa. Tuy hai cách đánh giá hiện trạng khác
nhau, nhưng
hai bên đều đồng ý rằng gói kích thích là nguyên nhân của tất cả hiện
trạng. Tình hình thật ra không khả quan như người cầm quyền nói và
không tệ như ngưòi đối lập nói. Như vậy hai bên có thể sai ở chỗ nào.
Trong tình hình bình thường, người ta có thể lý luận
theo kiểu lý thuyết kinh
tế tân cổ điển của John Maynard Keynes khuyến khích nhà
nước lợi dụng
quyền lực ngân sách, tài chánh của mình để chi tiêu, đầu tư, vừa
tạo mãi
lực cho người dân, vừa tạo công ăn việc làm cho họ, với hiệu ứng số nhân
(mưltiplier effect) có thể phát triển nhanh chóng, 1 đồng bỏ ra, về sau lấy
lại
được 3-4 đồng. Nói cách khác, đây là chính sách “chính phủ cứ tiêu đi”.
Ngược lại,
kinh tế đối nghịch với Keynes xuất phát từ kinh tề gia của Mỹ
Milton Friedman hầu
như chủ trương một chính sách kinh tế thị trường
laissez-faire tuyệt đối, và nhà
nước thay vì hướng đến người dân như kinh
tế học Keynes thì hướng đến những nhà
tư bản, giới kinh doanh, chỉ cần
chính phủ hỗ trợ nhưng không muốn chính phủ
can thiệp, dòm ngó, muốn
chính phủ cứ để cho họ được “tự do tung hoành” – laissez-faire.
Chính sách
của Cộng Hòa là “tư bản cứ sản xuất đi” nếu chính phủ cắt thuế, tháo
gỡ
các cơ chế giám sát, kiểm soát…
Cảm giác bất lực, tuyệt vọng ở các nhà chính trị, các
nhà kinh tế, và ngay
cả dân chúng là ở chỗ đứng ở đâu người ta cũng thấy thực sự
giải pháp cho
sự bế tắc kinh tế hiện nay không ở trong những lý thuyết thực hành
người
ta đã có. Bởi vì chẳng có lý thuyết nào có thể đứng vững trước những thay
đổi trên thế giới “toàn cầu” “hậu chiến tranh lạnh” (mà nay ta đang chứng
kiến)
và trong nước Mỹ (sự suy yếu trong khả năng cạnh tranh quiốc tế
cũng như xuống
cấp trên mọi mặt của chính trị, kinh tế, xã hội của Mỹ, mà
nay ta đang thấm),
cuối cùng dẫn đến sự thay đổi nơi chính người Mỹ -
mạnh mẽ là ở tâm tư và thể
hiện trong cách sống hiện nay của họ. Trong
khi bên châu Âu, người ta đang kêu gọi dân chúng sống “khắc khổ”,
làm
cho chúng ta nhớ tới một thời “kiệm ước”, trị giá gia tăng, vào tháng mười
năm 1970 của ông Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc ở Saigon, bên Mỹ
người ta vẫn
phải kêu gọi dân chúng rán chi tiêu mạnh vào, mặc dù người
ta biết rằng tiết kiệm
là đức tính nên có không nên bỏ, và người Mỹ thực ra
đang cạn tiền để dành vửa
vì bị suy thoái đánh tơi tả vửa vì một tập quán
chi tiêu lâu đời cho nên trở tay
không kịp. Nhưng nói vắn tắt, từ một khuynh
hướng tiêu thụ (propensity of
saving) của người dân là 2.1% cách đây ba
năm nhảy lên cách sống mới làm được
100 đồng tiềt kiệm 6.5 đồng, thì làm
sao mà chính sách kích thích của ông Obama
phát huy đầy đủ tác dụng
được. Mặt khác, những người Cộng Hòa trong thâm tâm chăc
chắn không
thiếu gì người hiều rằng mình đang tự lừa dối mình. Nền kinh tế này
không
đi lên được không vì thiếu “tax cuts”, mà quá dư “tax cuts” - tức sự ưu đãi
của chính quyền cho giới kinh doanh - cho nên bị lạm dụng và bị phá hoại
tan tành,
bởi chính những giới tư bản đã dẫn đến khủng hoảng nhà cửa,
sụp đổ thị trường tài chánh…
Trong khi còn nhiều kết luận có thể nói thêm từ tình
trạng hiện nay, có một
điều chắc chắn: sự
bế tắc hiện nay của Mỹ không thuần là bế tắc kinh tế.
Do đó giải đáp cũng không
thể là thuần kinh tế. Sự tìm kiếm chỉ mới bắt
đầu, nếu người ta đủ can đảm nhìn nhận phải bắt đầu tìm kiếm.